Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 71/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 71/2023/HS-ST NGÀY 07/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2023/HSST ngày 19 tháng 01 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 395/2023/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyn Cả B; giới tính: Nam; sinh ngày 10 tháng 12 năm 1991, tại tỉnh Hậu Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, thị trấn K, huyện H, tỉnh Hậu Giang; lưu trú: 1686/1/12 tỉnh lộ, khu phố 1, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: chạy xe công nghệ; con ông: Nguyễn Văn N (sinh năm 1963) và bà Võ Thị Bích L (sinh năm 1966); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022 – có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đoàn Anh Phương V - Luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 10/01/2022, tại trước số D5/13D, tổ 5A, khu phố 4, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ công tác Công an huyện Bình Chánh tuần tra phát hiện Nguyễn Cả B điều khiển xe mô tô biển số 95P1-X có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại móc xe bên phải phía trước 01 bịch nylon đựng 01 hộp giấy có ghi chữ VN NUMBER ONE, bên trong chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 53,5538 gam loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 621/KLGĐ-H ngày 19/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh) nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, B khai nhận: Khoảng giữa tháng 12/2021, khi hành nghề chạy xe ôm công nghệ (Grab) thì B quen biết Phạm Thị Mỹ Q. Q kêu B phụ giúp giao ma túy cho khách của Q để nhận tiền công nên B đồng ý. Khi cần B đi giao ma túy, Q sẽ sử dụng số điện thoại 0X04641 gọi đến số điện thoại 078X742 của B để hẹn gặp. Việc giao ma tuy, có khi Q trực tiếp giao ma túy cho B, có khi để người khác (không rõ lai lịch) mang đến giao cho B. Sau khi nhận ma túy, Q chỉ dẫn B mang giao cho khách của Q. B đã phụ giúp Q giao ma túy được 07 lần, B không nhớ rõ thời gian, địa điểm và người nhận. Mỗi lần giao ma túy thì B được Q trả công 250.000 đồng.

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/01/2022, khi B đang đi giao hàng tại khu vực Cầu Đôi, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thì Q gọi điện thoại nói B đến khu vực ngã ba Đức Hòa, tỉnh Long An gặp 01 người phụ nữ (không rõ lai lịch) để nhận ma túy đi giao cho khách của Q tại khu vực thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh. Tại điểm hẹn, B gặp 01 người phụ nữ điều khiển 01 xe mô tô (không rõ biển số) và nhận từ người này 01 bịch nylon màu vàng đựng 01 hộp giấy có ghi chữ VN NUMBER ONE có chứa ma túy. B treo bịch nylon đựng ma túy này tại vị trí móc xe bên phải phía trước, sau đó gọi điện cho Q thì Q nói B chạy đến khu vực cầu vượt Nguyễn Văn Linh, huyện Bình Chánh rồi gọi đến số điện thoại 090X064 của khách mua ma túy để liên hệ giao dịch. Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 10/01/2022, B đi đến trước địa chỉ D5/13D, tổ 5A, khu phố 4, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh chưa kịp giao ma túy thì bị Công an phát hiện bắt giữ quả tang như trên.

Đối với Phạm Thị Mỹ Q là người giao ma túy cho B đi bán, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xác minh và ủy thác điều tra đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang để xác minh đối với Phan Thị Mỹ Q kết quả xác định: Phan Thị Mỹ Q hiện không sinh sống tại địa phương và đi đâu không rõ. Hiện Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy tìm đối với Phan Thị Mỹ Q.

Đối với các đối tượng là người phụ nữ giao ma túy cho B mang và những người B giao ma túy không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án đang tạm giữ:

- 01 gói ma tuý đã được niêm phong bên ngoài ghi vụ số 621-150 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân S và Điều tra viên Châu Thị Hồng N (PC04), bên trong là số ma tuý còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, imei: 353482158049174 cùng một sim Mobifone có số 9754; 01 điện thoại di động hiệu Redmi, imei: 860347049822038 cùng 01 sim cắt, trên sim có số thuê bao 083X378; 01 bịch nylon màu vàng và 01 hộp khẩu trang bên ngoài chữ VN NUMBER ONE;

Tại Bản cáo trạng số 52/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 16/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Cả B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Cả B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Trong phần tranh luận bị cáo đồng ý với lời bào chữa của Luật sư và không có ý kiến gì thêm, nói lời sau cùng bị cáo xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong phần tranh luận đã luận tội phân tích tính chất, mức độ, động cơ phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Cả B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Cả B từ 15 đến 16 năm tù; Phạt bổ sung 10.000.000 đồng. Đối với vật chứng đang tạm giữ đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận đối đáp quan điểm bào chữa của Luật sư, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội và đề nghị xử phạt bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Cả B trình bày: thống nhất với tội danh và khung hình phạt Viện Kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ đó là bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt lần đầu phạm tội; nhận thức pháp luật hạn chế; là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn khung hình phạt Viện kiểm sát đề nghị và giảm mức phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng đã thực hiện có trong hồ sơ đều hợp pháp.

[2]. Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Cả B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Để có tiền tiêu xài, Nguyễn Cả B đã có hành vi nhận ma túy của người tên Phạm Thị Mỹ Q (chưa xác định được) số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 53,5538 gam loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 621/KLGĐ-H ngày 19/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh) đem bán cho người nghiện ma túy, đã bị Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 10/01/2022, tại trước địa chỉ D5/13D, tổ 5A, khu phố 4, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Cả B đã phạm vào tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Cả B về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an của xã hội tại địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc, nhưng vì thu lợi nhuận cao, bị cáo đã bất chấp hậu quả xảy ra, cố ý phạm tội. Trong vụ án này bị cáo đã mua bán trái phép chất ma túy là loại Methamphetamine thuộc trường hợp: “… có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam…”, đây là tình tiết định khung hình phạt theo điểm b khoản 3 của Điều luật đã viện dẫn.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: xét thấy tại cơ quan Công an cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt là tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những phân tích đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần thiết cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội thời gian dài để cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Ngoài ra cần áp dụng hình phạt bổ sung theo đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[6].Về xử lý vật chứng đang tạm giữ:

- Xét 02 (hai) điện thoại di động là phương tiện do bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tang vật còn lại không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7].Trên đây cũng là nhận định của Hội đồng xét xử đối với Quyết định truy tố, phần luận tội và đề nghị xử phạt của đại diện Viện kiểm sát, cũng như quan điểm bào chữa của Luật sư đối với bị cáo tại phiên tòa.

[8].Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Cả B 15 (mười lăm) năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/01/2022.

Phạt bổ sung Nguyễn Cả B số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng, sung ngân sách nhà nước.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, imei: 353482158049174 cùng một sim Mobifone có số 9754 (không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi, imei: 860357049822038 cùng 01 sim cắt, trên sim có số thuê bao 083X378 (không kiểm tra được số imei, số thuê bao do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong);

+ Tịch thu tiêu hủy số tang tài vật gồm: 01 (một) gói ma tuý đã được niêm phong bên ngoài ghi vụ số 621-150 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân S và Điều tra viên Châu Thị Hồng N (PC04), bên trong là số ma tuý còn lại sau giám định; 01 (một) bịch nylon màu vàng; 01 hộp khẩu trang bên ngoài chữ VN NUMBER ONE;

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2023/123 ngày 01/02/2023 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Bị cáo Nguyễn Cả B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 71/2023/HS-ST

Số hiệu:71/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về