Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/HSST ngày 15/3/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2023/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Văn T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 20/9/2000; Nơi sinh: Huyện An B, tỉnh Kiên Giang; Nơi ĐKTT: Ấp Nam Quí, xã Đông Thái, huyện An B, tỉnh Kiên Giang; Nơi tạm trú: Số 466/42, đường Nguyễn Trung Trực, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nhân viên; Trình độ học vấn: 6/12; Cha: Phan Công D, sinh năm: 1968, nghề nghiệp: Làm ruộng; Mẹ: Trần Thị L, sinh năm: 1971, nghề nghiệp: Làm ruộng; Anh, chị, em ruột có 05 người, người lớn nhất sinh năm 1991, người nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/10/2022, hiện đang bị tạm giam, tham gia phiên tòa trực tuyến tại đầu cầu Nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá.

2. Họ và tên: Châu Khánh D; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 13/02/2001; Nơi sinh: Huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang; Nơi ĐKTT: Ấp Vĩnh Trung, xã Hòa Ch, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang; Nơi tạm trú: Số 389, đường Lâm Quang Ky, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Châu Chí L, sinh năm: 1976, nghề nghiệp: Làm ruộng; Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1980, nghề nghiệp: Nội trợ; Em ruột tên Châu D Khánh sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/10/2022, hiện đang bị tạm giam, tham gia phiên tòa trực tuyến tại đầu cầu Nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá.

* Người bào chữa cho bị cáo Châu Khánh D: luật sư Ngọc D, Văn phòng luật sư Ngọc D, Đoàn luật sư tỉnh Kiên Giang. (có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến: Lê Hoàng Gi, sinh năm: 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 01, đường Hoàng Văn Th, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 02/10/2022, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Kiên Giang và Công an phường Vĩnh L tiến hành kiểm tra quán Bar P ở địa chỉ số 35 - 36, đường nội bộ Lạc Hồng, khu phố 1, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá phát hiện bắt quả tang Phan Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi áo khoác (bên trái) của T đang mặt trên người 02 viên nén màu xám không rõ hình dạng và các mãnh vụng; 01 bịch nylon có rãnh rài viền màu đỏ, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng rắn, không đồng nhất (T khai là ma túy, mua của Châu Khánh D). Đến 00 giờ 45 phút ngày 02/10/2022, Châu Khánh D biết được hành vi mua bán trái phép ma túy của mình đã bị phát hiện, không thể che giấu được nên D đã đến đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Qua quá trình điều tra đã xác định được Châu Khánh D là Nhân viên bảo vệ và Phan Văn T là Nhân viên phục vụ bàn của quán Bar P, số 35 - 36 đường nội bộ Lạc Hồng, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, cả hai đều chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình làm nhân viên bảo vệ tại quán bar thì có nhiều khách đến quán chơi hàng đêm hỏi T mua ma túy để sử dụng, T gặp D hỏi mua ma túy nên D đã nãy sinh ý định mua ma túy để vừa sử dụng, vừa bán lại cho khách để kiếm lời. Còn T thì trong quá trình phục vụ bàn cho khách tại quán bar, khi có khách đến quán bar chơi đặt vấn đề hỏi mua ma túy thì T nhắn tin cho D qua mạng xã hội ứng dụng Zalo để hỏi mua ma túy bán lại cho khách để hưởng lợi nhuận từ tiền bo khi mỗi lần mua ma túy dùm khách. Nguồn ma túy D có được để bán cho T là do D mua của người thanh niên khoảng 35 tuổi (không rỏ tên, nhân thân, lai lịch) cũng là khách đến quán bar chơi, địa điểm các đối tượng giao dịch mua bán ma túy là đều diễn ra ở khu vực quán Bar P, cụ thể:

Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 01/10/2022, do khách đến quán Bar P có nhu cầu sử dụng và hỏi mua ma túy nên T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max có gắn sim điện thoại số thuê bao là 0878165X nhắn tin qua ứng dụng mạng xã hội Zalo cho D hỏi mua ma túy qua điện thoại di động nhãn hiệu Realme có gắn sim số thuê bao sim 1 là 0787884X và sim 2 số thuê bao là 0835131X thì D đồng ý bán 02 (hai) viên thuốc lắc với giá là 600.000 đồng và 01 (một) bịch ma túy dạng khay với giá 800.000 đồng, (tổng cộng số tiền D bán ma túy cho T là 1.400.000 đồng) và D hẹn T đi vào khu vực nhà vệ sinh của quán bar để giao ma túy, khi T đi vào khu vực nhà vệ sinh như đã hẹn trước thì D đưa cho T 02 (hai) viên thuốc lắc và 01 (một) bịch ma túy dạng khay được D gói trong một mãnh khăn giấy màu trắng. Sau khi mua được ma túy thì T cất giấu vào trong túi áo khoác (bên trái) của T đang mặt trên người và nói với D sau khi bán cho khách xong thì mới trả tiền cho D. Đến lúc 00 giờ 15 phút ngày 02/10/2022 chưa kịp bán ma túy cho khách thì T đã bị cơ quan Công an bắt quả tang khi đang tàng trữ ma túy trên người.

Ngoài lần bị bắt quả tang thì cả hai bị can còn khai nhận với Cơ quan điều tra đã hai lần mua bán ma túy trước đó tại quán bar cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng đầu tháng 9/2022 (không nhớ ngày cụ thể) Châu Khánh D mua 02 (hai) viên thuốc lắc với giá là 500.000 đồng của người thanh niên khoảng 35 tuổi (không rỏ tên, nhân thân, lai lịch) là khách đến quán bar chơi và bán ma túy cho D tại quán bar. Sau khi D mua được ma túy thì T nhắn tin bằng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max có gắn sim điện thoại số thuê bao là 0878165X qua ứng dụng mạng xã hội Zalo cho D qua điện thoại di động nhãn hiệu Realme có gắn sim số thuê bao sim 1 là 0787884X và sim 2 số thuê bao là 0835131X thì được D đồng ý bán cho 01 (một) viên thuốc lắc với giá là 300.000 đồng và hẹn T giao ma túy tại khu vực nhà vệ sinh của quán bar và D giữ lại một viên một mình sử dụng hết. Sau đó T bán viên thuốc lắc trên lại cho một người thanh niên (không rõ tên tuổi, lai lịch) là khách đến quán bar chơi cũng với giá 300.000 đồng, sau khi bán cho khách lấy tiền xong thì T trả cho D 300.000 đồng tiền mua ma túy và T được người khách này cho 100.000 đồng tiền công từ việc mua ma túy dùm khách.

- Lần thứ hai: Vào buổi tối ngày 26/9/2022 (không nhớ giờ cụ thể), Châu Khánh D mua 05 (năm) viên thuốc lắc với giá là 2.500.000 đồng và 01 (một) bịch ma túy dạng khay với giá 700.000 đồng, cũng của người thanh niên khoảng 35 tuổi (không rỏ tên, nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho D lần trước tại quán Bar P, D đã sử dụng dần hết 02 viên thuốc lắc. Sau đó, do có một người khách là nam giới (không rỏ tên tuổi, lai lịch) đến quán bar chơi có nhu cầu sử dụng ma túy nên yêu cầu T mua dùm để sử dụng, T cũng dùng điện thoại di động của mình nhắn tin qua Zalo cho D hỏi mua 01 (một) viên thuốc lắc thì D đồng ý bán với giá là 300.000 đồng và việc mua bán ma túy cũng giao tại khu vực nhà vệ sinh của quán bar, sau khi mua được ma túy thì T đem bán lại cho khách lấy tiền xong thì T trả cho D 300.000 đồng và T được người khách này cho 100.000 đồng tiền công từ việc mua ma túy dùm. Số ma túy còn lại thì D đã bán cho T vào ngày 01/10/2023, tức ngày T bị bắt quả tang và bị thu giữ ma túy trên người.

Ngày 07/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam để điều tra. Trong quá trình điều tra và truy tố, các bị can Phan Văn T và Châu Khánh D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự khai ra các lần phạm tội trước đó, tự nguyện giao nộp lại số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy. Riêng, đối với Châu Khánh D sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú.

Ngày 25/10/2022, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang ra quyết định chuyển vụ án hình sự để điều tra theo thẩm quyền số 08/QĐ-VKSKG-P1 từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá.

*Việc thu giữ tài liệu, đồ vật:

- Thu giữ của Phan Văn T: 02 (hai) viên nén màu xám, không rỏ hình dạng cùng các mãnh vụn màu xám (nghi là ma túy); 01 (một) bịch nylon, màu trắng có rãnh gài viền màu đỏ, có kích thước khoảng 03cm x 1,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng rắn, không đồng nhất (nghi là chất ma túy); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max, màu đen xám, có gắn sim điện thoại số thuê bao là 0878165X, đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm ngàn đồng) do Phan Văn T tự nguyện giao nộp.

- Thu giữ của Châu Khánh D: 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, màu tím, có gắn sim số thuê bao sim 1 là 0787884X và sim 2 số thuê bao là 0835131X, đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) do Châu Khánh D tự nguyện giao nộp.

* Tại bản kết luận giám định số: 961/KL-KTHS, ngày 06/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: 02 (hai) viên nén, màu xám không rỏ hình dạng và các mãnh vụn, màu xám được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8359 gam; Các hạt tinh thể dạng rắn, không đồng nhất chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3272 gam.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục IB, STT 11, Nghị định 57/2022/NĐ- CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 40, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

* Tại bản kết luận giám định số: 1204/KL-KTHS, ngày 26/12//2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang: Trích xuất dữ liệu điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu đen xám, số IMEI: 353905108279863 đã qua sử dụng ra 128GB (một trăm hai mươi tám Gigabyte) dữ liệu bao gồm tin nhắn, cuộc gọi, danh bạ, hình ảnh… Bên trong điện thoại sử dụng SIM 1 số thuê bao 0878165X; Trích xuất dữ liệu điện thoại di động hiệu Realme, màu tím, số IMEI1: 863800040125410, số IMEI 2: 863800040125402, đã qua sử dụng ra 31.7GB (ba mươi mốt phẩy bảy Gigabyte) dữ liệu bao gồm tin nhắn, cuộc gọi, danh bạ, hình ảnh… Bên trong điện thoại sử dụng SIM 1 số thuê bao 0787884X, SIM 2 có số thuê bao: 0835131X.

Kèm theo kết luận giám định: 01 (một) bản phụ lục và 01 (một) ổ cứng chứa dữ liệu đã trích xuất từ các thiết bị gửi giám định.

* Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền Việt Nam 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) của bị cáo Phan Văn T và 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Châu Khánh D do không dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã trả lại cho Phan Văn T và Châu Khánh D theo Quyết định xử lý vật chứng số 111, ngày 12/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKSRG ngày 14/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá truy tố bị cáo Phan Văn T và bị cáo Châu Khánh D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá giữ nguyên quan điểm truy tố theo Cáo trạng số 65/CT - VKS ngày 14/3/2023 và đề nghị:

+ Đề nghị tuyên bị cáo Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 05 năm đến 6 năm tù.

+ Đề nghị tuyên bị cáo Châu Khánh D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, r khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

+ Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 961/2022 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A; 01 (một) SIM điện thoại số thuê bao là 0878165X của Phan Văn T dùng để liên hệ mua ma túy;

Đề nghị lưu hồ sơ vụ án ổ cứng chứa dữ liệu trích xuất tin nhắn từ điện thoại của các bị cáo và lưu hồ sơ 02 (hai) SIM điện thoại số thuê bao gắn SIM 1 là 0787884X, SIM 2 số thuê bao là 0835131X của Châu Khánh D dùng để liên hệ mua bán ma túy.

Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội: Tiền Việt Nam 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) của Phan Văn T tự nguyện giao nộp từ việc thu lợi bất chính do mua bán ma túy mà có; Tiền Việt Nam 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) của Châu Khánh D tự nguyện giao nộp là số tiền dùng vào việc phạm tội; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone11 Pro Max, màu đen xám, số IMEI: 353905108279863, đã qua sử dụng của bị can Phan Văn T dùng để liên lạc mua bán ma túy; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu tím, số IMEI1: 863800040125410, số IMEI 2: 863800040125402, đã qua sử dụng của bị can Châu Khánh D dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Đối với số tiền Việt Nam 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) của bị can Phan Văn T và 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị can Châu Khánh D do không dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã trả lại cho Phan Văn T và Châu Khánh D theo Quyết định xử lý vật chứng số 111, ngày 12/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá, nên không đề nghị xem xét.

- Tại phiên tòa: bị cáo Châu Khánh D và bị cáo Phan Văn T khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Tại phiên tòa luật sư Ngọc D tranh luận: về tội danh của bị cáo D thì luật sư không có ý kiến. Riêng về hình phạt thì mức án theo đề nghị của Viện kiểm sát là cao đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết sau khi phạm tội bị cáo đã tự thú, đã thành khẩn khai báo và cũng đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Xét thấy tại phiên tòa bị cáo Châu Khánh D và bị cáo Phan Văn T đã khai nhận:

Châu Khánh D và Phan Văn T đều là nhân viên của quán Bar P, số 35 - 36 đường nội bộ Lạc Hồng, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá. D là đối tượng nghiện ma túy, nguồn ma túy có để sử dụng và bán lại cho T để T bán lại cho khách đến quan bar là do D mua của người thanh niên khoảng 35 tuổi (chưa xác định được nhân thân và lai lịch). Vào ngày 01/10/2022 do khách đến quán bar hỏi mua ma túy để sử dụng nên T dùng điện thoại Iphone 11 Pro Max có gắn sim số thuê bao là 0878165X nhắn tin qua Zalo cho D hỏi mua ma túy qua điện thoại Realme có gắn sim số thuê bao sim 1 là 0787884X và sim 2 số thuê bao là 0835131X thì D đồng ý bán 02 (hai) viên thuốc lắc với giá là 600.000 đồng và 01 (một) bịch ma túy dạng khay với giá 800.000 đồng, địa điểm D và T mua bán ma túy diễn ra tại khu vực nhà vệ sinh của quán bar. Sau khi mua được ma túy của D thì T bỏ 02 (hai) viên thuốc lắc và 01 (một) bịch ma túy dạng khay được gói trong một mãnh khăn giấy màu trắng cất giấu vào trong túi áo khoác (bên trái) đang mặt trên người (T chưa trả tiền cho D). Đến lúc 00 giờ 15 phút ngày 02/10/2022 khi T còn cất giấu ma túy trong người chưa kịp bán cho khách thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Kiên Giang và Công an phường Vĩnh L bắt quả tang T cùng tang vật. Đến 00 giờ 45 phút ngày 02/10/2022 thì Châu Khánh D biết được hành vi mua bán ma túy của mình đã bị phát hiện nên đến đầu thú. Qua giám định số ma túy đã thu giữ trên người T gồm 02 (hai) viên nén, màu xám không rỏ hình dạng và các mãnh vụn, màu xám là chất ma túy, loại MDMA, có khối lượng là 0,8359 gam; các hạt tinh thể dạng rắn, không đồng nhất chứa trong 01 (một) bịch nylon là chất ma túy, loại Ketamine, có khối lượng là 0,3272 gam.

Ngoài lần bị bắt quả tang thì bị cáo T và bị cáo D còn khai nhận trước đó đã hai lần D bán 02 (hai) viên ma túy cho T với giá 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) để T bán lại cho khách đến quán bar cũng với giá 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) vào thời gian tháng 9/2023 (không nhớ ngày), và cả hai lần trên T đều bán lại cho khách đến quán bar (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), đã thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy cho khách được 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đã thực hiện hành vi phạm tội 02 lần trở lên nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố định khung tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, truy tố bị cáo theo các điều khoản như trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm khác.

Xét về nhân thân trước thời điểm phạm tội các bị cáo không có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong vụ án này các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Khi bị bắt các bị cáo đã tự khai ra những lần bán ma túy trước đó nên cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Châu Khánh D trước khi bị bắt đã tự nguyện đến đầu thú nên cần áp dụng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cần quyết định một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm tội và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên qua xem xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ Điều 54 Bộ luật hình sự HĐXX thống nhất áp dụng mức hình phạt trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Xét mức hình phạt tù theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là hơi cao so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 961/2022 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A Tịch thu, phát mãi và sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone11 Pro Max, màu đen xám, số IMEI: 353905108279863, đã qua sử dụng của bị can Phan Văn T dùng để liên lạc mua bán ma túy; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu tím, số IMEI1: 863800040125410, số IMEI 2: 863800040125402, đã qua sử dụng của bị can Châu Khánh D dùng để liên lạc mua bán ma túy.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 51/QĐ-VKS ngày 14/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội: Tiền Việt Nam 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) của Phan Văn T tự nguyện giao nộp từ việc thu lợi bất chính do mua bán ma túy mà có; Tiền Việt Nam 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) của Châu Khánh D tự nguyện giao nộp là số tiền dùng vào việc phạm tội theo giấy nộp tiền ngày 03/01/2023.

Lưu hồ sơ vụ án 01 phong bì có dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang bên trong có 01 ổ cứng chứa dữ liệu đã trích xuất từ các thiết bị gởi giám định và 01 (một) SIM điện thoại số thuê bao là 0878165X của Phan Văn T dùng để liên hệ mua ma túy; 02 (hai) SIM điện thoại số thuê bao gắn SIM 1 là 0787884X, SIM 2 số thuê bao là 0835131X của Châu Khánh D dùng để liên hệ mua bán ma túy.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với người thanh niên khoảng 35 tuổi (không rỏ tên, nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho Châu Khánh D và hai đối tượng đã mua ma túy của Phan Văn T ở khu vực quán Bar P hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phan Văn T 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 02/10/2022.

- Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Châu Khánh D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Châu Khánh D 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 02/10/2022.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 961/2022 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A Tịch thu, phát mãi và sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone11 Pro Max, màu đen xám, số IMEI: 353905108279863, đã qua sử dụng của bị can Phan Văn T dùng để liên lạc mua bán ma túy; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu tím, số IMEI1: 863800040125410, số IMEI 2: 863800040125402, đã qua sử dụng của bị can Châu Khánh D dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội: Tiền Việt Nam 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) của Phan Văn T tự nguyện giao nộp từ việc thu lợi bất chính do mua bán ma túy mà có; Tiền Việt Nam 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) của Châu Khánh D tự nguyện giao nộp là số tiền dùng vào việc phạm tội theo giấy nộp tiền ngày 03/01/2023.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 51/QĐ-VKS ngày 14/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

Lưu hồ sơ vụ án 01 phong bì có dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang bên trong có 01 ổ cứng chứa dữ liệu đã trích xuất từ các thiết bị gởi giám định và 01 (một) SIM điện thoại số thuê bao là 0878165X của Phan Văn T dùng để liên hệ mua ma túy; 02 (hai) SIM điện thoại số thuê bao gắn SIM 1 là 0787884X, SIM 2 số thuê bao là 0835131X của Châu Khánh D dùng để liên hệ mua bán ma túy.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20/4/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về