Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Vi Văn A, sinh năm 1979; tại tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Thôn 5A, xã EW, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Vi Văn B (đã chết) và bà Nông Thị B; bị cáo có vợ: Lý Thị C và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/01/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Ông Nguyễn Toàn D - Luật sư - Văn phòng Luật sư HL - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: K13 LTK, TP. BMT, tỉnh Đắk Lắk, có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lý Thị C - sinh năm: 1990 Địa chỉ: Thôn 5A, xã EW, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Bế Văn G; sinh năm 1999.

Địa chỉ: Thôn 10, xã CM, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vi Văn A là người nghiện chất ma tuý loại Heroine từ năm 2019. Đầu tháng 01/2021, do nhu cầu sử dụng chất ma túy ngày càng nhiều, nên A đã tìm mua chất ma túy của các đối tượng ngoài xã hội (không rõ nhân thân lai lịch), về sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện trên địa bàn để kiếm lời, thời gian này A đã bán cho 03 người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) với giá từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng/01 lần. Thấy việc bán chất ma túy có lời, nên A đã nảy sinh ý định tìm mua chất ma túy Heroine với số lượng lớn để về phân nhỏ bán lại cho các đối tượng nghiện. Qua các mối quan hệ xã hội, A quen biết 01 người đàn ông tên Q tại huyện EH, tỉnh Đắk Lắk. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/01/2021, A điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 47D1 - 070.76 đi từ nhà của A ở thôn 5A, xã EW, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk, đến khu vực rẫy cà phê thuộc thôn 10, xã CM, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk để gặp Q. Tại đây A nói với Q cần mua Heroine với số tiền 70.000.000 đồng, Q đồng ý và cầm số tiền 70.000.000 đồng do A đưa, sau đó Q đưa cho A một gói nylon không màu bên trong có chứa chất ma túy loại Heroine. Sau khi kiểm tra A đã cất số ma túy (Heroine) vào trong túi quần phía trước, bên phải của A đang mặc trên người. Sau đó, A điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 47D1 - 070.76 đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường thuộc thôn 10, xã CM, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk thì bị tổ công tác của Công an huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk yêu cầu dừng lại để kiểm tra, A đã tự nguyện lấy từ trong túi quần phía trước, bên phải của A đang mặc trên người một gói nylon không màu bên trong có chứa chất rắn màu trắng ra giao nộp, A khai nhận cục chất rắn bên trong gói nylon không màu A vừa giao nộp là chất ma túy loại Heroine. Tổ công tác của Công an huyện Ea H'Leo đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 143/GĐMT-PC09 ngày 27/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 118, 3284 gam, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKST-P1 ngày 09 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Vi Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra các chứng cứ buộc tội, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, đề nghị tuyên bố bị cáo Vi Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Về hình phạt, đề nghị áp dụng các điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vi Văn A 20 năm tù.

Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy 117,4030 gam ma túy, loại Heroine (còn lại sau giám định) của Vi Văn A; 01 sim điện thoại được gắn vào điện thoại di động hiệu Nokia. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, Model 105 thu giữ của Vi Văn A đã sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy; 1/2 giá trị xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 47D1 - 070.76 mà Vi Văn A đã sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy. Trả lại cho chị Lý Thị C 1/2 giá trị xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 47D1 - 070.76; Trả cho Vi Văn A 01 điện thoại di động hiệu Realme; 01 CMND số 240831083 mang tên Vi Văn A.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo Vi văn A trình bày luận cứ bào chữa: Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt cho bị cáo với mức thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa của Luật sư và không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/01/2021, tại khu vực rẫy cà phê thôn 10, xã CM, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Vi Văn A đã mua 118,3284 gam ma túy lại Heroin, với giá 70.000.000 đồng của một người đàn ông tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời. Trên đường A về nhà thì bị Công an huyện Ea H’Leo bắt quả tang, thu giữ trên người của A 01 gói ma túy có khối lượng 118, 3284 gam, loại Heroin, cùng một số tài sản có liên quan. Hành vi của bị cáo Vi Văn A đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Vi Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

“Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;

b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng 100 gam trở lên;

…”.

Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đủ điều kiện để nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt; mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

[3] Luật sư Nguyễn Toàn D cho rằng bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan công an trong quá trình điều tra vụ án nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Việc bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội với Cơ quan cảnh sát điều tra để làm sảng tỏ nội dung vụ án, không phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới nên không có cơ sở chấp nhận ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Đối với người đàn ông tên Q đã bán chất ma túy loại Heroine cho Vi Văn A, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng các biện pháp điều tra, nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của người này, nên tách ra tiếp tục xác minh, khi có đủ cơ sở sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với gói ma túy Heroin, khối lượng còn lại sau giám định là 117,4030 gam cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia bị cáo Vi Văn A đã sử dụng liên lạc với đối tượng để mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 47D1 - 070.76, giấy chứng nhận đăng ký xe số 032948 đứng tên Vi Văn A, là tài sản chung của bị cáo Vi Văn A và chị Lý Thị C (vợ của bị cáo A). Bị cáo A sử dụng xe mô tô này để đi mua bán ma túy thì chị Hoa không biết. Do vậy, cần tịch thu 1/2 giá trị xe mô tô để sung công quỹ Nhà nước. Trả lại cho chị Lý Thị C 1/2 giá trị xe mô tô. Tiếp tục tạm giữ xe mô tô này và và giấy chứng nhận đăng ký xe để đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Realme, bị cáo Vi Văn A không sử dụng vào mục địch phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 chứng minh nhân dân số 240831083 mang tên Vi Văn A, cần trả lại cho bị cáo.

(Các vật chứng có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Vi Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Vi Văn A 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/01/2021.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 117,4030 gam ma túy loại Heroin (còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

+ 1/2 giá trị xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 47D1 - 070.76 của Vi Văn A. Trả lại cho chị Lý Thị C 1/2 giá trị xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 47D1 - 070.76. Tiếp tục tạm giữ xe mô tô này và giấy chứng nhận đăng ký xe để đảm bảo công tác thi hành án đối với Vi Văn A.

- Trả cho Vi Văn A 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đen, 01 chứng minh nhân dân số 240831083 mang tên Vi Văn A.

(Các vật chứng có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vi Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về