Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 62/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

 BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2021/TLST-ST ngày 23 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lưu Sỹ T; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1991 tại huyện C, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Đức L và bà Hoàng Thị H; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2021 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Quảng Bình. Có mặt - Người làm chứng:

+ Ông Võ Thành T, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện C, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 11/5/2021, Lưu Sỹ T đang ở nhà thì có một người dùng nick zalo tên “Nhật Linh” nhắn tin hỏi mua 1.000.000 đồng (một triệu đồng) ma túy loại hồng phiến và bảo đưa tới nhà nghĩ “Thanh Tuấn” ở Thanh Trạch, huyện Bố Trạch và T đồng ý. Sau đó, T gọi điện thoại cho một người đàn ông (không rõ danh tính, địa chỉ) ở thị xã Ba Đồn mua 1.000.000 đồng (một triệu đồng) ma túy hồng phiến, người này đồng ý và bảo T đến chổ lan can phía Nam Cầu Gianh, thuộc huyện Bố Trạch lấy ma túy. T điều khiển xe mô tô BKS 73F1 - 433.62 đến địa điểm trên tìm lấy 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa 10 (mười) viên ma túy hồng phiến rồi kẹp ma túy vào ngón chân cái bên phải và điều khiển xe mô tô đến nhà nghĩ “Thanh Tuấn” để bán cho người hỏi mua trước đó. Đến khoảng 18 giờ 15 phút cùng ngày, T đến trước nhà nghĩ “Thanh Tuấn” và nhắn tin cho người mua ra lấy ma túy. Trong lúc chờ thì T bị lực lượng chức năng phát hiện quả tang, thu giữ 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa 10 (mười) viên nén dạng thuốc tân dược hình tròn màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều ký hiệu “WY”. (BL 36 - 37, 49 - 62).

Tại Bản kết luận giám định số: 715/QĐ - PC09 ngày 18/5/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,931g (không phẩy chín trăm ba mươi mốt gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự 323, Danh mục II, NĐ 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. (BL 24).

Vật chứng vụ án: Thu giữ 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa 10 (mười) viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều ký hiệu “WY” có khối lượng 0,931g (không phẩy chín trăm ba mươi mốt gam), sau giám định còn 0,811g (không phẩy tám trăm mười một gam) được niêm phong trong một phong bì thư dán kín có số: 715/GĐ - PC 09; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen BKS 73F1 - 433.62 đã qua sử dụng kèm theo 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 025082 mang tên Lưu Sỹ T; 01 (một) ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng có số điện thoại 0865909219. (BL 12, 13, 36 - 38).

Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen BKS 73F1 - 433.62 mang tên Lưu Sỹ T nhưng tiền mua xe là do bà Hoàng Thị H (mẹ đẻ T) vay mượn và mua trả góp để T có phương tiện đi làm; hiện tại bà H là người đang trực tiếp việc trả góp mua xe. Ngày 11/5/2021, T sử dụng xe mô tô nói trên vào việc phạm tội, bà Hường không biết, cho nên ngày 20/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 02 trả lại cho bà Hoàng Thị H kèm theo giấy đăng ký xe mô tô số 025082.

Cáo trạng số: 62/CT-VKSBT ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình truy tố Lưu Sỹ T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; tuyên xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện như bản cáo trạng đã truy tố nên không tranh luận gì, đồng thời bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, cho nên rất ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét để được hưởng chính sách khoan hồng của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng. Tuy nhiên sự vắng mặt của người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi phạm tội, tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ quá trình thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng bị thu giữ, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Mặc dù biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng Lưu Sỹ T vẫn cố ý mua 10 viên ma túy, loại hông phiến, có tổng khối lượng 0,931g Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời.

Với hành vi đã thực hiện như trên của bị cáo đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Mua trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, không những trực tiếp xâm phạm các quy định của Nhà nước trong độc quyền quản lý đối với các chất ma túy và bị pháp luật hình sự nghiêm cấm, mà còn là một trong những nguyên nhân chính gây phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự nên bị xã hội lên án gay gắt. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ nhận thức về pháp luật và am hiểu đời sống xã hội nhất định, lần đầu phạm tội và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo luôn có thái độ thành khẩn trong khai báo, thể hiện rõ sự ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội đã thực hiện. Vì vậy, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc; cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo. Đồng thời đáp ứng được công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm ma túy ngày càng có chiều hướng gia tăng.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ Luật hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....”. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nguồn thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Xét thấy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch căn cứ vào nguồn gốc xe mô tô biển kiểm soát 73F1-433.62 có giấy đăng ký mang tên Lưu Sỹ T do bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ bị cáo) vay mượn và hiện đang thực hiện việc trả góp nhằm sử dụng chung trong gia đình và chỉ cho bị cáo đứng tên chủ sở hữu. Việc bị cáo sử dụng phương tiện của gia đình để thực hiện hành vi phạm tội bà H và gia đình không hay biết. Do đó, đã xử lý trả lại 01 cho bà Nguyễn Thị H là có cơ sở nên không xem xét gì thêm.

Đối với khối lượng Methamphetamine được hoàn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì thư dán kín có số; 715/GĐ - PC 09 của Phòng KTHS Công an tỉnh Quảng Bình là chất cấm lưu hành và 01 sim điện thoại có số 0865.909.219 nhưng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng là công cụ được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước (BL 12, 13, 36 - 38).

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Liên quan đến vụ án còn có các đối tượng đặt mua ma túy và đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng quá trình điều tra chưa xác định được thông tin và danh tính cụ thể nên không có căn cứ để xử lý. Vì vậy, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng này khi có đủ căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Sỹ T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lưu Sỹ T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (11/5/2021).

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lưu Sỹ T với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/9/2021) theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư dán kín, được đóng dấu niêm phong có số:

715/GĐ-PC09 ngày 18/5/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, bên trong có chứa khối lượng Methamphetamine hoàn lại sau giám định và 01 sim điện thoại có số: 0865.909.219.

- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng.

Vật chứng nêu trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch và có số lượng đặc điểm được mô tả chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 24/9/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lưu Sỹ T phải chịu nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/9/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 62/2021/HS-ST

Số hiệu:62/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về