Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 553/2021/HS-PT

A ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 553/2021/HS-PT NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 424/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 07 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Đại C do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 210/2021/HS- ST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Đại C, giới tính: nam; sinh ngày: 14/7/1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 330/10 PVT, Phường P5, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: không biết chữ; nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: K; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị L (chết); chưa có vợ, con; Nhân thân: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Bản án số 32/2017/HSST ngày 14/02/2017, ngày 09/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù, đã nộp xong án phí hình sự sơ thẩm; Tiền án: không; tiền sự: Năm 2018, bị Toà án nhân dân quận Gò Vấp ra Quyết định số 112/QĐ-TA ngày 15/5/2018 về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ngày 16/9/2019 chấp hành xong quyết định.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 14/5/2020 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đại C là luật sư Võ Vĩnh S, Công ty Luật TNHH ĐPV, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo Nguyễn Đại C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/5/2020, Tổ công tác Hình sự đặc nhiệm - Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Trật tự xã hội, Công an quận GV kết hợp với Công an Phường 10, quận GV bắt quả tang Nguyễn Đại C phía trước nhà số 18 PVT, Phường 10, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ trong cốp xe gắn máy biển số 59H1-169.62 một túi vải màu trắng in chữ Givenchy đựng một gói nylon màu vàng có in chữ Guanyinwang được quấn băng keo bên ngoài, bên trong là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 992,95 gam, loại Methamphetamine, theo Kết luận giám định số 825/KLGĐ-H ngày 22/5/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, số sim:

0798166367; 01 xe máy biển số 59H1-169.62 và 2.900.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của C tại địa chỉ 327/14/1 QT, Phường 10, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ: 02 búa kim loại có cán bằng gỗ dài khoảng 37cm; 03 điện thoại di động, gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Samsung; 01 đĩa sứ hình tròn, màu trắng; 01 thẻ nhựa; 01 bình gas hiệu Bluesky; 02 camera quan sát màu trắng, không rõ hiệu và 04 xe máy, gồm: 01 xe máy hiệu Exciter biển số: 83C1-402.19; 01 xe máy hiệu Exciter biển số: 36D1-473.52; 01 xe máy hiệu Vision biển số: 59D1-295.85 và 01 xe máy hiệu SH biển số: 59A3-243.69. Trong cốp xe có 01 túi xách màu hồng đựng 02 bình ga hiệu Bluesky; 01 áo sơ mi ngắn tay màu trắng sọc đen quấn bên trong có 01 khẩu súng ngắn số LE26/27 có hộp tiếp đạn chứa 10 viên đạn màu đồng; Kết quả giám định khẩu súng thu được thuộc nhóm vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí thể thao; 10 viên đạn là đạn thể thao quốc phòng cỡ 5,6x15,6mm chưa qua sử dụng, thường dùng cho các loại súng như súng trường thể thao TOZ8, súng ngắn ổ quay Smith & Wesson của Mỹ; các loại súng tự chế có cỡ nòng và buồng đạn phù hợp với kích cỡ của loại đạn này.

Quá trình điều tra Nguyễn Đại C khai nhận là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2017. Khoảng 17 giờ ngày 13/5/2020, C nhận được điện thoại của một người tên H (không rõ lai lịch, C quen biết H do đã mua ma túy của H nhiều lần để sử dụng) nói C liên hệ với một người phụ nữ tên O để mua ma túy mang về giao lại cho H, C đồng ý. Khoảng 15 phút sau, C nhận được điện thoại của O gọi vào điện thoại di động của C nói khi nào đi mua ma túy thì liên hệ lại để chở O cùng đi, C đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H gọi điện thoại cho C hẹn ra gặp tại quán cà phê bên cạnh nhà thờ Xóm Thuốc, quận GV. Sau đó, C mượn xe máy biển số 59H1-169.62 của Nguyễn Thị Kim L, là vợ chưa đăng ký kết hôn, đi ra chỗ hẹn gặp H. Tại đây, H đưa cho C số tiền 145.000.0000 đồng để đưa cho O mua ma túy tổng hợp (hàng đá) và sẽ cho C 5.000.000 đồng tiền công, H đã đưa trước cho C 3.000.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng sẽ đưa khi nào mua ma túy về khu vực chung cư Khang Gia, quận GV giao cho H. C nhận tiền mua ma túy của H rồi liên lạc với O hẹn gặp nhau tại khu vực công viên Gia Định, quận GV. Sau đó, C chạy xe đến chỗ hẹn và chở O đi đến một quán cà phê gần khu vực cầu K, quận BT. Tại quán cà phê, C mở cốp xe lấy số tiền 145.000.000 đồng đưa cho O. Sau đó, có một thanh niên đi xe máy hiệu Airblade màu đen đến gặp và chở O đi đâu không rõ. Khoảng 10 phút sau, người thanh niên này chở O quay lại quán cà phê. Lúc này, người thanh niên bỏ đi, còn O đưa cho C một túi vải màu trắng in chữ Givenchy đựng một gói nylon màu vàng có in chữ Guanyinwang được quấn băng keo bên ngoài, bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá). C nhận túi vải đựng ma túy cất giấu vào trong cốp xe máy rồi chở O đi về, khi đi đến khu vực gần cầu hang trên đường PVT, quận BT thì O xuống xe đi đâu không rõ. Còn C tiếp tục đi xe máy đến chung cư Khang Gia, quận GV để giao ma túy cho H, khi đến trước số 18 PVT, Phường 10, quận GV thì bị phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật chứng.

Mở rộng điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận GV đã mời Trần Thị Kiều O để làm việc do nghi vấn O có liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với Nguyễn Đại C. Qua điều tra, O khai nhận có hẹn gặp C và Tý (không rõ lai lịch) tại cầu K, Phường 27, quận BT, nhưng hẹn gặp để mua bán dâm chứ không mua bán ma tuý. Kết quả nhận dạng, C xác nhận O đúng là người nhận tiền để bán ma tuý cho C, nhưng kết quả đối chất giữa C và O thì O không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với C. Do chỉ có lời khai của C, kết quả xét nghiệm ma tuý Trần Thị Kiều O âm tính với ma tuý nên không có đủ căn cứ xác định O có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với C; Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận GV đã giải toả đối với O theo quy định.

Đối với đối tượng tên Hoàng, Cơ quan điều tra đã trích xuất hình ảnh thẻ nhớ trong đầu thu camera thu tại nơi ở của C tại số 327/14/1 QT, Phường 10, quận GV cho Nguyễn Đại C nhận dạng, nhưng do C không khai rõ lai lịch địa chỉ của Hoàng, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có căn cứ để xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với hành vi mua bán khẩu súng ngắn và 10 viên đạn, C khai khẩu súng và đạn thu được nói trên là của C mua trên mạng xã hội, mục đích để khoe với bạn bè và làm kỷ niệm. Do C sợ bạn gái phát hiện nên bỏ vào cốp xe, do mua đã lâu nên không nhớ giá và mua vào thời gian nào. Do hành vi không cấu thành tội phạm, nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra đã chuyển súng, đạn và các tài liệu liên quan đến Công an quận GV xử lý theo thẩm quyền.

Đối với các số điện thoại, C và đối tượng H sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, Cơ quan Cảnh sát Điều tra (PC04) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn gửi Trung tâm tính cước và thanh khoản - Tổng Công ty viễn thông Mobifone. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có kết quả trả lời.

Vật chứng vụ án, gồm có:

- 01 gói niêm phong, ghi số 825/20 bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 02 búa kim loại có cán bằng gỗ dài khoảng 37cm; 02 điện thoại di động:

01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; 01 đĩa sứ hình tròn, màu trắng; 01 thẻ nhựa; 01 bình gas hiệu Bluesky; 02 camera quan sát màu trắng, không rõ hiệu;

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Samsung. C khai 02 chiếc điện thoại này là của bạn gái tên Nguyễn Thị Kim L. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với bà Ly, xác định 02 chiếc điện thoại này là của bà Ly.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda SH biển số 59H1-169.62; số máy: KF08E-5011244KTGE1; số khung: RLHKF110XAY101884 do bà Nguyễn Thị Kim L mua lại của ông Phan Minh T (sinh năm: 1990; ngụ: Phường 7, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh) có hợp đồng công chứng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 14/5/2020, bà Ly cho bạn trai là Nguyễn Đại C mượn xe để đi công việc, nhưng C không nói là đi đâu, làm gì. Việc C sử dụng xe đi mua bán ma tuý bà Ly không hay biết. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả xe cho bà Ly bảo quản, sử dụng.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Exciter biển số 83C1-402.19; số máy: KC26E-1195693; số khung RLHKC2G02EY350955. Kết quả giám định số khung, số máy là nguyên thuỷ, không bị đục lại. Qua xác minh, xe do ông Đào Minh T (sinh năm: 1994; địa chỉ: xã ĐH, huyện KS, tỉnh ST) đứng tên giấy đăng ký. Làm việc với ông T thì được biết ông Tiến chỉ đứng tên giấy đăng ký xe dùm em trai ruột là ông Đào Thiên T1. Tiến hành làm việc với ông Tường được biết, khoảng tháng 5/2020 do dịch bệnh covid nơi làm việc của ông Tường tạm đóng cửa, ông Tường quen biết với Nguyễn Đại C nên gửi xe nhà C tại địa chỉ 327/14/1 đường QT, Phường 10, quận GV để về quê tại Sóc Trăng. C cũng xác nhận là xe của ông Tường gửi. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả xe cho ông Tường bảo quản, sử dụng.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Exciter biển số 36D1-473.52, số máy: G3E6E-Q248948; số khung: MH3UGQ710HK174734. Kết quả giám định số khung, số máy là nguyên thuỷ, không bị đục lại. Qua xác minh, xe do ông Mai Thanh S (sinh năm: 1976; hộ khẩu thường trú: Khu 5, thị trấn TX, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá) đứng tên giấy đăng ký; ông Sơn cho biết đã sử dụng xe này đến ngày 18/5/2020, khi đến nhà bạn chơi tại địa chỉ 36/21 khu phố TN, DA, Bình Dương thì bị kẻ gian lấy trộm, sau đó ông đến Công an phường DA, thành phố DA, tỉnh Bình Dương trình báo việc bị mất trộm xe. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bàn giao vật chứng là xe biển số 36D1-473.52 cùng toàn bộ tại liệu liên quan cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố DA, tỉnh Bình Dương điều tra, xử lý vụ “Trộm cắp tài sản” theo thẩm quyền.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Vission gắn biển số 59D1-295.85; số máy: JF33E-0325346; số khung: RLHJF3304CY654912. Qua xác minh, xe do bà Đỗ Thị Ngọc D (địa chỉ: 704/47/1 phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên giấy đăng ký; xác minh tại Công an phường BTĐ, quận BT được biết bà D không thực tế ở tại địa chỉ trên, chuyển đi đâu không rõ. Ngày 05/6/2020, Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định số máy, số khung nguyên thuỷ của chiếc xe bị thu giữ có số khung: RLHJ3304CY654912, số máy: JF33E-0325346, do đó chiếc xe thu giữ gắn biển số: 59D1-295.85 là giả. Cơ quan điều tra xác minh từ số khung, số máy đã giám định xác định chiếc xe thu giữ có biển số: 66F1-179.10 do bà Nguyễn Thị Thu Phước (địa chỉ: Mỹ Phú Đất Liền, thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) đứng tên giấy đăng ký xe. Ngày 05/3/2020, bà Phước để xe mô tô biển số:

66F1-179.10 trước xưởng tại địa chỉ 964/67 Tân Kỳ Tân Quý, phường Bình Hưng Hòa, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị kẻ gian lấy trộm, nhưng không đến trình báo Công an. Sau khi biết tìm được xe, bà Phước đến Công an phường Bình Hưng Hoà, quận BT trình báo và được Công an phường nơi bà bị mất trộm lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Bình Tân. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bàn giao vật chứng là xe mô tô hiệu Honda Vission có số khung: RLHJ3304CY654912, số máy: JF33E-0325346 đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Bình Tân điều tra, xử lý vụ “Trộm cắp tài sản” theo thẩm quyền.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda SH biển số 59A3-243.69, số máy: NF05E-0058809; số khung: ZDCNF05BOFK157235. Kết quả giám định số khung số máy là nguyên thuỷ, không bị đục lại. Qua xác minh, xe do bà Nguyễn Thị V, (sinh năm: 1954; hộ khẩu thường trú: 197 Tôn Đản, Phường 15, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên giấy đăng ký xe. Bà V khai, do bà có hộ khẩu Thành phố Hồ Chí Minh nên một người đàn ông mua xe tên Nguyễn Trung Thành (không rõ lai lịch) nhờ đứng tên đăng ký xe giúp xe biển số: 59A3- 243.69, phí dịch vụ là 500.000 đồng. Sau khi bà V làm dịch vụ, lấy được giấy đăng ký xe xong, người đàn ông tên Thành không còn liên lạc, nên bà V hiện không rõ người đàn ông tên Thành này ở đâu. Cơ quan Điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu và những ai có liên quan đến chiếc xe biển số 59A3- 243.69 nhưng không có ai liên hệ cơ quan Công an để được giải quyết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh chuyển kho vật chứng Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh chờ xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 92/CTr-VKS-P1 ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Đại C tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 210/2021/HS-ST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại C tử hình, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục giam bị cáo Nguyễn Đại C để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Nguyễn Đại C phải nộp số tiền phạt là 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Đại C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Đại C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo C nêu bị cáo mua ma túy về dùng chứ không mua dùm cho H. Việc bị cáo mua ma túy của Trần Thị Kiều O là sự thật và O là người nghiện ma túy, cơ quan công an nói O không nghiện ma túy và là gái mua bán dâm với bị cáo là không đúng. Bị cáo cũng có bạn gái và O cũng có chồng nên không có việc bị cáo mua dâm như O khai. Khi bị bắt cơ quan điều tra đã thu tất cả điện thoại của bị cáo. Điện thoại bị thu bị cáo có liên lạc với O, nội dung cuộc gọi trong điện thoại mà bị cáo khai không có sự việc mua dâm.

n nữa, như lý lịch bị cáo đã nêu bị cáo không biết chữ nên quá trình khai tại cơ quan điều tra xong thì bị cáo điểm chỉ chứ không ký tên. Bị cáo không viết tên trong bản khai mà do một người giam chung với bị cáo viết hộ.

Phần tranh luận

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo Nguyễn Đại C đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy là 992,95 gam, loại Methamphetamine, phạm tội thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 100 gam trở lên”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Quá trình điều tra, bị cáo khai mua ma túy của đối tượng Trần Thị Kiều O. Đối tượng O không thừa nhận hành vi phạm tội, không xác định được nội dung giao dịch giữa O và bị cáo C. Do không đủ cơ sở xác định O là người bán ma túy nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư của bị cáo phát biểu quan điểm bào chữa: Kính mong Hội đồng xét xử xem xét lại bản án sơ thẩm. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cha mẹ bị cáo mất sớm, bị cáo phạm tội từ khi còn rất trẻ. Hậu quả phạm tội của bị cáo đã kịp thời được ngăn chặn. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm f, điểm h khoản 1, khoản 2 Điều 51, để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội trở về với gia đình.

Bị cáo Nguyễn Đại C trình bày: đồng ý với lời bào chữa của luật sư, không bổ sung gì thêm.

Bị cáo Nguyễn Đại C nói lời nói sau cùng: Hình phạt đối với bị cáo là quá nặng, bị cáo mong muốn được làm lại cuộc đời. Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

n cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử xác Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/5/2020, tại trước địa chỉ số 18 PVT, Phường 10, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, khi C đang trên đường đi giao ma túy lại cho H thì bị phát hiện, bắt quả tang trong cốp xe gắn máy do C điều khiển có một túi vải màu trắng in chữ Givenchy đựng một gói nylon màu vàng có in chữ Guanyinwang được quấn băng keo bên ngoài, bên trong là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 992,95 gam, loại Methamphetamine, theo Kết luận giám định số 825/KLGĐ-H ngày 22/5/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Đại C đã khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 13/5/2020, C đang ở nhà thì nhận được điện thoại của H nói C liên hệ với O để mua ma túy mang về giao lại cho H, C đồng ý. Khoảng 15 phút sau, C nhận được điện thoại của O nói khi nào đi mua ma túy thì liên hệ lại để chở O cùng đi, C đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H gọi điện thoại cho C hẹn ra gặp và đưa cho C số tiền 145.000.0000 đồng để đưa cho O mua ma túy, H sẽ cho C 5.000.000 đồng tiền công, H đưa trước cho C 3.000.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng sẽ đưa khi nào mua ma túy về. Ma túy mua được thì mang về khu vực chung cư Khang Gia, quận GV giao cho H.

C đã nhận tiền của H, liên lạc với O, chở O đi đến một quán cà phê gần khu vực cầu K, quận BT, C mở cốp xe lấy số tiền 145.000.000 đồng đưa cho O. Sau đó, một thanh niên đi xe máy hiệu Airblade màu đen đến gặp và chở O đi đâu không rõ. Khoảng 10 phút sau, người thanh niên này chở O quay lại quán cà phê, người thanh niên bỏ đi, còn O đưa cho C một túi vải màu trắng in chữ Givenchy đựng một gói nylon màu vàng có in chữ Guanyinwang được quấn băng keo bên ngoài, bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy. C nhận túi vải đựng ma túy cất giấu vào trong cốp xe máy rồi chở O đi về, khi đi đến khu vực gần cầu hang trên đường PVT, quận BT, O xuống xe, còn C tiếp tục đi xe máy đến chung cư Khang Gia, quận GV để giao ma túy cho H. Khi đến trước số 18 PVT, Phường 10, quận GV thì bị Công an kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. Như vậy, vì động cơ tư lợi, Nguyễn Đại C đã mua ma túy giúp đối tượng tên H (không rõ lai lịch) để hưởng lợi bất chính.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Đại C và bà Nguyễn Thị Kim L cùng xác định có đối tượng tên H đã đến nhà số 327/14/1 QT, Phường 10, quận GV, do bà Ly thuê để chung sống với C. Bà Ly cũng nhận diện được đối tượng H qua trích xuất từ camera thu giữ tại nhà. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai ban đầu của bị cáo Nguyễn Đại C là phù hợp. Việc bị cáo C thay đổi lời khai tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm về việc mua ma túy để dùng là không có cơ sở chấp nhận.

Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử bị Nguyễn Đại C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạm tội thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 100 gam trở lên”. Tội danh và hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo

[2.1] Căn cứ chứng cứ lý lịch của bị cáo đã thu thập trong vụ án và bản án sơ thẩm nêu “Trình độ học vấn: Không biết chữ”. Nhưng tất cả các văn bản tố tụng mà bị cáo tham gia khai báo là Biên bản khám xét, Biên bản bắt quả tang, Biên bản hỏi cung… đều có chữ ký tên “C” và viết tên Nguyễn Đại C chứ không có việc bị cáo điểm chỉ trong các biên bản tố tụng nêu trên. Đây là nội dung cần phải làm rõ bị cáo có “Trình độ học vấn: Không biết chữ” là đúng hay sai. Từ đó xác định chữ ký và chữ viết trong văn bản tố tụng là do bị cáo viết hay người khác viết hộ như bị cáo đã khai tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp cần thiết có thể giám định chữ ký và chữ viết tại bút lục có ghi âm ghi hình và các chữ ký viết trong văn bản tố tụng khác.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận định thêm để cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm rút K nghiệm: Trường hợp, Lý lịch bị cáo thể hiện bị cáo là người “không biết chữ” thì việc xác nhận lời trình bày của mình trong các văn bản Tố tụng, cơ quan điều tra cần phải cho bị cáo lăn dấu vân tay xác nhận là cần thiết. Việc làm này phù hợp với nội dung lý lịch phản ánh bị cáo không biết chữ (kể cả có việc bị cáo khai biết ký chữ ký tên “C” và viết tên Nguyễn Đại C) . Nghiệp vụ yêu cầu bị cáo điểm chỉ, lăn dấu vân tay để tránh trường hợp bị cáo khai nại về sau.

Sai sót về tố tụng nêu trên đối với vụ án tuyên mức án cao nhất cần phải được bổ sung làm rõ là cần thiết.

[2.2] Mặt khác, nội dung cáo trạng truy tố bị cáo đã nêu : Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận GV đã mời Trần Thị Kiều O để làm việc do nghi vấn O có liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với Nguyễn Đại C. Qua điều tra, O khai nhận có hẹn gặp C và Tý (không rõ lai lịch) tại cầu K, Phường 27, quận BT, nhưng hẹn gặp để mua bán dâm chứ không mua bán ma tuý. Kết quả nhận dạng, C xác nhận O đúng là người nhận tiền để bán ma tuý cho C, nhưng kết quả đối chất giữa C và O thì O không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với C. Do chỉ có lời khai của C, kết quả xét nghiệm ma tuý Trần Thị Kiều O âm tính với ma tuý nên không có đủ căn cứ xác định O có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với C; Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận GV đã giải toả đối với O theo quy định.

Đây là nội dung nhận định để loại trừ trách nhiệm hình sự của đối tượng O là chưa đủ căn cứ pháp luật bởi: Thứ nhất cơ quan điều tra chưa xác định được động cơ của bị cáo C khai mua ma túy của đối tượng O là gì? Để từ đó, xác định lời khai nào có căn cứ. Việc cơ quan tố tụng xác định nội dung vụ án chính là lời khai bị cáo nhưng lại loại trừ trách nhiệm hình sự của đối tượng O chỉ vì O không công nhận lời khai của bị cáo là sự thật. Bên cạnh đó, cơ quan điều tra đã thu giữ được điện thoại của O cũng như của bị cáo C nhưng chưa truy xuất nội dung cuộc gọi giữa O và bị cáo C để xác định bị cáo khai đúng hay O khai đúng. Việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa triệt để trong quá trình điều tra có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Do bị cáo (bị tuyên mức án Tử hình) trong vụ án này là nhân chứng duy nhất chứng minh hành vi phạm tội của O khi điều tra bổ sung chứng minh hành vi phạm tội của O. Do đó việc hủy toàn bộ vụ án để điều tra lại tránh bỏ lọt tội phạm và xác định rõ về trình độ học vấn của bị cáo cũng như các chữ ký trong các văn bản Tố tụng có phải của bị cáo hay người khác ký và viết hộ bị cáo.

[2.3] Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm và bản cáo trạng đã mô tả. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho rằng minh mua ma túy với mục đích sử dụng chứ không phải mua cho H nhưng không xuất trình chứng cứ nào mới về lời khai này. Do vậy bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và hình phạt không sai.

Hội đồng xét xử cũng nhận định thêm, căn cứ phạm vị truy tố Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng. Do vậy, việc hủy bản án sơ thẩm không thuộc lỗi chủ quan của hội đồng xét xử cấp sơ thẩm.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 210/2021/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra chứng minh những nội dung Hội đồng xét xử đã nhận định.

[3] Do chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c Khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự,

1/ Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại C.

Hủy bản án sơ thẩm số 210/2021/HS-ST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ vụ án về cho Viện kểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.

2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Đại C không phải chịu. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 553/2021/HS-PT

Số hiệu:553/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về