Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 91/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 91/2023/HS-PT NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 464/2022/TLPT-HS ngày 17/10/2022 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 818/2023/QĐXXPT-HS ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, đối với:

Bị cáo Lê Thị Thanh N, sinh ngày 20/02/1987 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 11 phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: K80/2 đường T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn K và bà Nguyễn Thị Ng (Đều còn sống); Có chồng là Tăng Ngọc C và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2009 và con nhỏ nhất sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 02/4/2022, hiện đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Thanh N: Luật sư Thái Quốc V- Công ty luật TNHH MTV T1, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng bào chữa theo yêu cầu của bị cáo và gia đình bị cáo, Luật sư có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Anh N1 (Bin), nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Lúc 19 giờ ngày 28/3/2022, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn đi vào căn nhà số 64 đường N2, tổ 71 Phường H1, quận C1, thành phố Đà Nẵng nên phối hợp cùng Công an Phường H1 ập vào kiểm tra thì phát hiện nam thanh niên ôm 01 hộp giấy hình chữ nhật và 02 hộp nhựa chạy vào Phòng vệ sinh.

Tiến hành kiểm tra nam thanh niên khai tên là Nguyễn Anh N1; Kiểm tra 02 hộp nhựa đánh số 01 và 02 màu trắng và màu hồng bên trong có 01 gói nylong chứa 132 viên nén màu xanh (Ký hiệu A), 01 gói nylong chứa 192 viên nén màu xanh (Ký hiệu A); Kiểm tra Hộp giấy hình chữ nhật bên ngoài đề dòng chữ Khẩu trang y tế trẻ em, bên trong có 04 hộp nhựa màu trắng và tím, 02 hộp nhựa màu trắng và hồng, 02 hộp nhựa màu trắng và xám, 05 gói nylong mỗi gói chứa 200 viên nén màu xanh (Ký hiệu B); 01 gói nylong chứa 199 viên nén màu xanh (Ký hiệu B);

Công an còn lập Biên bản thu giữ 01 điện thoại di động màu xanh Nokia seri: 358619060310021, sim số 0786.670.953; 01 điện thoại di động màu vàng Imel: 354860891793241, sim số 0799.182.019; 01 xe mô tô BKS 43D1-942.18 và số tiền 21.000.000 đồng.

Mở rộng truy xét, lúc 09 giờ 15 phút ngày 02/4/2022 tại phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Thị Thanh N thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, sim số 0938.470.401 và 0352.147.743. 0799.182.019, đồng thời lúc 10 giờ cùng ngày 02/4/2022 tiến hành khám xét chỗ ở của Lê Thị Thanh N tại tổ 11, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng nhưng không thu giữ được gì và có tạm giữ 01 điện thoại di động màu xanh hiệu Vivo sim số 0768.625.018 của Huỳnh ĐứcTh; 01 thẻ Ngân hàng Sacombank số tài khoản 040079186653 tên Nguyễn Thị Như Y.

Quá trình điều tra đã xác định:

Khoảng 17 giờ ngày 26/3/2022, đối tượng tên Tùng (không rõ nhân thân lai lịch) đến phòng trọ của Nguyễn Anh N1 chơi và nhờ N1 mua giùm 200 viên ma túy, N1 đồng ý. Do cũng có ý định mua ma túy về để bán kiếm lời nên khoảng 18 giờ 00 phút ngày 26/3/2022, N1 sử dụng điện thoại số 0799.182.019 gọi điện cho Lê Thị Thanh N số 0938.470.401 hỏi mua 350 viên ma túy, N đồng ý bán với giá 185.000 đồng/viên và yêu cầu N1 trả trước một ít tiền, N1 đồng ý. N1 bảo Tùng đưa trước một ít tiền để N1 đưa cho N, Tùng đồng ý và đưa cho N1 30.000.000 đồng, N1 bảo Tùng chiều ngày 27/3/2022 quay lại lấy ma túy.

Sáng ngày 27/3/2022, N1 sử dụng tài khoản số 040079186653 Ngân hàng Sacombank 02 lần chuyển tiền cho N vào tài khoản số 040100572089 Ngân hàng Sacombank của N với tổng số tiền 32.000.000 đồng. Khoảng 10 giờ 22 phút cùng ngày, N1 điều khiển xe mô tô BKS 43D1-94218 đến K80/02 Tôn Đức Thắng, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng rồi liên hệ với N lấy ma túy. N đưa cho N1 01 gói nylong bên trong có 02 hộp khẩu trang chứa ma túy. Sau đó, N1 mang số ma túy trên về phòng trọ mở ra kiểm tra, thấy có 01 hộp khẩu trang bên trong có 04 hộp nhựa chứa khoảng 800 viên ma túy thuốc lắc và 01 hộp khẩu trang bên trong có 06 hộp nhựa chứa khoảng 1.200 viên thuốc ma túy thuốc lắc. Thấy số lượng ma túy lớn nên N1 liên lạc lại với N thì N nói hộp khẩu trang có 04 hộp nhựa chứa khoảng 800 viên thuốc lắc, nếu N1 mua hết số lượng này thì sẽ lấy giá 180.000 đồng/viên, còn nếu chỉ mua số lượng 350 viên thì sẽ lấy giá 185.000 đồng/viên, hộp khẩu trang còn lại có 06 hộp nhựa chứa khoảng 1.200 viên thuốc lắc thì N bảo N1 cất giữ đó, khi nào có ai mua thì N sẽ điện thoại cho N1 nhờ N1 giao giúp thì N1 đồng ý. Đến khoảng 16 giờ ngày 27/3/2022, Tùng đến phòng trọ của N1 lấy ma túy, N1 đưa cho Tùng tổng cộng 450 viên ma túy thuốc lắc và bảo Tùng khi nào bán xong thanh toán cũng được, Tùng đồng ý.

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 28/3/2022, Hoàng ĐứcTh liên hệ với N1 hỏi mua 25 viên thuốc lắc. N1 đồng ý bán với giá 200.000 đồng/viên, tổng số tiền là 5.000.000 đồng và hẹn đến cuối đường Nhơn Hòa 5, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng để giao dịch. Sau khi thỏa thuận theo yêu cầu của N1,Th sử dụng tài khoản Ngân hàng Quân đội số 52529996886 chuyển số tiền 4.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng Sacombank số 040079186653 của vợ N1 (Nguyễn Thị Như Y). N1 lấy 25 viên thuốc lắc bỏ vào bao thuốc lá rồi mang đến cuối đường Nhơn Hòa 5 vứt xuống khu vực bãi cỏ, sau đóTh đến địa điểm hẹn gặp và đưa cho N1 thêm số tiền 1.000.000 đồng, nhận tiền xong, N1 chỉ vị trí bãi cỏ đã vứt ma túy choTh rồi N1 về phòng trọ. Theo chỉ dẫn của N1,Th tìm gói ma túy, nhưng không thấy nên gọi lại N1 thì N1 không bắt máy, sau đóTh bị Công an mời lên làm việc. Sau khi gặpTh, N1 về lại phòng trọ tại nhà số 64 đường N2, tổ 71 phường H1, quận C1, thành phố Đà Nẵng cầm số ma túy còn lại đã mua của N trên tay thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an Phường H1 ập vào kiểm tra, lập biên bản lúc 19 giờ ngày 28/3/2022 như đã nêu ở phần đầu.

Tại Kết luận giám định số 46/KLMT-KTHS ngày 01/4/2022, Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu viên nén màu xanh gói niêm phong (ký hiệu A và B) gửi giám định là ma túy loại MDMA; khối lượng mẫu A: 133,138gam; khối lượng mẫu B: 486,37gam, tổng khối lượng 619,508 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 67/2022/HS-ST ngày 06/9/2022, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 và Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh N tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/4/2022.

Bản án sơ thẩm còn có quyết định về hình phạt với bị cáo Nguyễn Anh N1; hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Thị Thanh N và bị cáo Nguyễn Anh N1; biện pháp tư pháp; xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm.

- Ngày 09/9/2022, bị cáo Lê Thị Thanh N kháng cáo

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo N trình bày do Trại tạm giam Công an Thành phố Đà Nẵng in sẵn mẫu đơn kháng cáo (nội dung xin giảm hình phạt) các bị cáo chỉ được phép ký và ghi họ tên vào mẫu đơn in sẵn, trong khi bản chất bị cáo kháng cáo cho rằng mình bị oan nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét minh oan cho bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng lời khai của bị cáo Nguyễn Anh N1 khẳng định mua ma túy của bị cáo Lê Thị Thanh N về bán lại kiếm lời nhưng có N1 mâu thuẫn, bị cáo Lê Thị Thanh N kêu oan và chưa đủ căn cứ kết tội bị cáo N nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Thị Thanh N đều không thừa nhận có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với bị cáo Nguyễn Anh N1 mà kêu oan; tuy nhiên, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy rằng có đủ cơ sở để kết luận bị cáo N có hành vi bán ma túy cho bị cáo N nên Tòa án tuyên bố bị cáo N phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, không oan; mức hình phạt tù chung thân là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xét hỏi và tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về tội danh, khung hình phạt:

Mặc dù, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Lê Thị Thanh N khai báo quanh co, né tránh không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với bị cáo Nguyễn Anh N1. Tuy nhiên, xem xét lời khai của bị cáo N thể hiện tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm thì bị cáo N thừa nhận có quen biết bị cáo N1 ngoài xã hội, đồng thời thừa nhận lúc 10 giờ 20 ngày 27/3/2022, tại trước cổng nhà bị cáo N đang cư trú, bị cáo N có giao cho N1 01 gói nylong màu trắng bên trong có hai hộp khẩu trang y tế trẻ em, nhưng bị cáo N không biết bên trong hai hộp khẩu trang có chứa ma túy và cho rằng gói ni lông này là do đối tượng tên Phong (bị cáo N không rõ nhân thân lai lịch) nhờ bị cáo N giao cho N1. Xét, sau khi N1 bị Công an bắt quả tang về hành vi cất giấu ma túy trong các hộp giấy bên ngoài ghi khẩu trang y tế trẻ em (do bị cáo N đưa cho N1) thì N lo sợ N1 sẽ khai ra số ma túy N1 bị bắt quả tang là của N nên N nghe ngóng, theo dõi, thông tin qua báo, đài rồi sau đó sử dụng điện thoại di động thông qua mạng xã hội Zalo nhắn tin trao đổi với chồng, em gái ruột và bạn thân về những nội dung có liên quan đến việc mua bán ma túy với N1 sau khi N1 bị bắt (các tin nhắn được thể hiện tại các BL từ số: 37-61 và BL số từ số 290-292). Đối chiếu các tài liệu chứng cứ nêu trên, phù hợp với lời khai nhận của N1 tại biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục số 07, 08), các biên bản ghi lời khai (từ bút lục 114 - 123), các bản tự khai, bản tường thuật do N1 tự viết, tự ký (từ bút lục 133- 143); Biên bản nhận dạng (bút lục 144, 145); Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng (từ bút lục 283 – 286, 293 – 294, 301 - 303); Các bản tự khai của người làm chứng (bút lục 287 – 289, 295 – 296, 305 – 306) mà trong quá trình điều tra Công an thành phố Đà Nẵng thu thập được và Bản kết luận giám định số 46/KLMT- KTHS ngày 01/4/2022, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đủ cơ sở xác định ngày 27/3/2022 Lê Thị Thanh N có hành vi bán cho Nguyễn Anh N1 khoảng 800 viên ma túy thuốc lắc với giá 180.000 đồng/viên và đưa cho Nguyễn Anh N1 khoảng 1.200 viên ma túy thuốc lắc để nhờ N1 bán giúp N khi có người mua và được N1 đồng ý.

Toàn bộ số ma túy nêu trên, N1 bán cho đối tượng tên Tùng (chưa rõ nhân thân lai lịch) 450 viên ma túy thuốc lắc với giá 185.000 đồng/viên vào khoảng 16 giờ ngày 27/3/2022 và bán cho đối tượng Hoàng ĐứcTh 25 viên ma túy thuốc lắc với giá 5.000.000 đồng vào ngày 28/3/2022; số ma túy còn lại N1 cất giấu chưa kịp bán theo yêu cầu của N thì bị Công an bắt quả tang thu giữ vật chứng là ma túy vào lúc 19 giờ ngày 28/3/2022 được niêm phong (ký hiệu A,B). Tại bản kết luận giám định số 46/KLMT-KTHS ngày 01/4/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu viên nén niêm phong (ký hiệu A, B) gửi giám định là ma túy loại MDMA có tổng khối lượng là 619,508 gam (bút lục 19). Với các tình tiết trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Lê Thị Thanh N phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự (khối lượng MDMA từ 100 gam trở lên) là đúng người, đúng tội, không oan và đúng khung hình phạt.

[2] Về quyết định hình phạt: Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình với khối lượng ma túy loại MDMA từ 100 gam trở lên. Bị cáo N thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy số lượng lớn, trong đó 800 viên bán cho bị cáo N1 với giá 180.000đ/ viên, số lượng 1.200 viên còn lại của N, N nhờ N1 cất giữ để bán cho khách. Sau khi N1 đã bán cho hai đối tượng (Tùng vàTh) 475 viên, số ma túy còn lại chưa bán bị Công an bắt quả tang tại nhà N1 thu giữ vật chứng là ma túy với tổng khối lượng theo giám định là 619,508 gam loại MDMA là vượt nhiều lần mức khởi điểm 100 gam.

Mặc dù, bị cáo N có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nhưng xét quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo cố ý khai báo gian dối quanh co, né tránh điều đó thể hiện bị cáo tỏ ra không thành khẩn khai báo, không biết ăn năn hối cải, gây cản trở cho quá trình điều tra truy tố, xét xử; bị cáo N không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên mức hình phạt tù chung thân mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo N là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo N kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thanh N, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 67/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, cụ thể:

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 và Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh N tù chung thân về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/4/2022.

Các quyết định khác tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Lê Thị Thanh N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 91/2023/HS-PT

Số hiệu:91/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về