Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 8 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Văn H, sinh ngày 24/3/1983 tại T; Nơi cư trú: thôn Đ, xã B, huyện K, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phạm Ngọc R (đã chết) và bà Nguyễn Thị T1; Có vợ là Phạm Thị Thu H1 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Bản án số 174/2017/HSST ngày 16/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt Phạm Văn H 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/12/2018, chấp hành xong án phí ngày 22/3/2018.

Bị tạm giữ từ ngày 07/01/2022 đến ngày 10/01/2022 chuyển tạm giam.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Bùi Đình T2, sinh năm: 1977 Trú tại: ngõ 283, đường T3, tổ 11, phường T3, thành phố T, tỉnh T.

- Người chứng kiến:

+ Anh Trần Ngọc A, sinh năm 1975. (Vắng mặt) Trú tại: số nhà 143, tổ 17, phường K1, thành phố T, tỉnh T.

+ Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973. (Vắng mặt) Trú tại: số nhà 06/05, tổ 4, phường P, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 07/01/2022, Phạm Văn H đi xe buýt từ nhà đến khu vực khu đô thị P1, phường Q, thành phố T, tỉnh T. Tại đây, H gặp một người nam giới, giới thiệu tên là Đ1 (không rõ về họ, năm sinh, địa chỉ). Qua nói chuyện biết H đang có nhu cầu tìm việc, kiếm tiền, người nam giới nhờ H bán ma túy và trả công 600.000 đồng/ngày thì H đồng ý. Sau đó người nam giới đưa cho H 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ bên trong có chứa 23 gói giấy bạc màu trắng và nói: “Anh bán cho khách mỗi gói là 200.000 đồng, chiều em gặp lấy tiền và trả công cho anh”. H nhận ma túy và cất trong tất chân bên phải sau đó đi tìm người mua để bán ma túy. Khi H đi bộ trong khu đô thị P1, thuộc tổ 06, phường Q, thành phố T thì Bùi Đình T2 đi đến, hỏi: “Anh có ma túy không bán cho em 200.000 đồng”. H nói: “Đưa tiền đây”. T2 đưa cho H 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. H nhận và cầm tiền ở lòng bàn tay phải, lấy từ tất chân bên phải của H 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ, rồi lấy từ trong túi nilon 01 gói ma túy đưa cho T2. T2 nhận gói ma túy và cất giấu tại túi quần bên trái đang mặc thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của anh Trần Ngọc A và anh Nguyễn Tiến V, T2 tự giác lấy từ túi quần hậu bên trái giao nộp cho tổ công tác 01 gói được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, T2 khai nhận là Hêrôin vừa mua của H để sử dụng cho bản thân. H tự giác đưa từ lòng bàn tay phải giao nộp cho tổ công tác 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng là tiền vừa bán ma túy cho T2 mà có, lấy từ tất chân bên phải đang đi giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ bên trong có chứa 22 gói đều được gói bằng giấy bạc màu trắng, mở ra bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, H khai là Hêrôin H cất giấu để bán, kiểm tra người H, T2 không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng, quản lý đồ vật, tài sản theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn H, kết quả không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 11/KLGĐMT- PC09 ngày 10/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định quản lý của Bùi Đình T2 là ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,0509 gam (Không phẩy không nghìn năm trăm linh chín gam). Mẫu vật gửi giám định quản lý của Phạm Văn H là ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 1,1851 gam (Một phẩy một nghìn tám trăm năm mươi mốt gam).

Bản Cáo trạng số 49/CT-VKSTPTB ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn H mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ.

Phạt bổ sung bị cáo từ 05 triệu đồng đến 07 triệu đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 02 phong bì bên ngoài ghi số 11/KLGĐMT-PC09. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 200.000 đồng do phạm tội mà có.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 07/01/2022 tại khu vực khu đô thị P1, thuộc tổ 06 phường Q, thành phố T, tỉnh T, Phạm Văn H đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,0509 gam cho Bùi Đình T2 với giá 200.000 đồng, ngoài ra Phạm Văn H còn tàng trữ trên người 22 gói ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 1,1851gam, mục đích để bán trái phép.

Hành vi trên của Phạm Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hành vi của Phạm Văn H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, là nguyên nhân phá hoại hạnh phúc của bao gia đình và còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, đã từng bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[3] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố đối với bị cáo Phạm Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo Phạm Văn H bán ma túy với mục đích kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng do phạm tội mà có.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai ngày 07/01/2022 nhận số Hêrôin trên từ người nam giới tên Đ1 để bán thuê cho Đ1 với tiền công là 600.000 đồng/ngày tại khu đô thị P1, phường Q, thành phố T, tỉnh T nhưng H không biết đầy đủ họ tên, năm sinh, địa chỉ của người này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định.

[9] Đối với Bùi Đình T2 là người đã mua ma túy của Phạm Văn H mục đích để sử dụng cho bản thân. Do lượng ma túy mà T2 mua chưa đủ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bản thân T2 chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi liên quan đến ma túy hoặc đã bị kết án về tội phạm ma túy, vì vậy Công an thành phố Thái Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T2.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự, Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 07/01/2022).

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

3.Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 02 phong bì bên ngoài ghi số 11/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

(Các vật chứng, tài sản trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/3/2022).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 21/4/2022. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về