Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 480/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 480/2022/HS-ST NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ L số 425/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 414/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc L, tên gọi khác: Không ; Sinh ngày 24 tháng 4 năm 1976 tại: Thái Nguyên; giới tính: nam; Nơi cư trú: tổ 7, phường V, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giao: không; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: không; con ông: Nguyễn Xuân H, sinh năm 1950; con bà: Dương Thị T, sinh năm 1955; gia đình có 02 anh, em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ, con Tiền án: (Tại Bản án số 185/HSST ngày 16/11/2004 của Toà án nhân dân thành phố N, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 03 năm tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 16/11/2007. Chưa chấp hành tiền nộp phạt 5.000.000 đồng).

Tiền sự: Không Nhân thân:

+ Tại Bản án số 186/HSST ngày 31/8/1993 của Toà án nhân dân thành phố N, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 02/9/1993. Chấp hành xong án phí 25/01/1994.

+ Tại Bản án số 362/HSST ngày 30/12/1994 Toà án nhân dân thành phố N, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 17/8/1995. Chấp hành xong án phí ngày 18/7/1996.

+ Tại Bản án số 54/HSST ngày 29/4/1996 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Thái, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 02 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công 1 dân”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 17/12/1997. Chấp hành xong án phí năm 2008.

+ Tại Bản án số 269/HSST ngày 12/12/2000 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 02/4/2002. Chấp hành xong án phí năm 2009 + Tại Bản án số 08/HSST ngày 08/6/2011 của Toà án nhân dân huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Ngọc L bị xử phạt 8 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 24/01/2018. Chấp hành xong án phí ngày 15/4/2013.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2022 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trai tam giam Công an tinh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thu T – sinh năm 1994 HKTT: Tổ 1, Nguyễn H, thành phố B, tỉnh Yên Bái Địa chỉ nơi ở: Tổ 6, phường V, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến:

+ Ông Lưu Văn C, sinh năm 1969 - vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 2, phường V, TP N, tỉnh Thái Nguyên.

+ Ông Lưu Hữu T, sinh năm 1957 - vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 7, phường T, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 40 ngày 22/6/2022, Tổ công tác của Công an phường T, thành phố N đang làm nhiệm vụ tại khu vực 12 của phường thì phát hiện 01 người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai nhận tên là Nguyễn Ngọc L. Quá trình kiểm tra phát hiện tại túi quần phía trước bên trái L đang mặc có 01 túi nilon màu trắng bên trong có 39 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng;

01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 túi nilon màu trắng bên trong có 07 gói giấy bạc màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa 01 mảnh viên nén màu hồng; 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa 01 mảnh viên nén màu hồng (L khai chất bột màu trắng là Heroine, viên nén màu hồng là ma tuý tổng hợp dạng hồng phiến, mục đích để bán kiếm lời). Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ số tiền 3.710.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R11 plus màu đen đã qua sử dụng có số sim 03382xxxxx và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 20B1- xxxxx, xe đã qua sử dụng..

Hồi 21 giờ 30 cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N tiến hành khám xét chỗ ở, địa điểm, đồ vật tài liệu của L tại tổ 7, phường V, thành phố N. Kết quả: Không phát hiện thu giữ được gì.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố N cân xác định khối lượng: Số mảnh viên nén màu hồng trong bì niêm phong ký hiệu A1 có khối lượng 0,414 gam, lấy toàn bộ số ma tuý trên gửi giám định (ký hiệu A2); Số chất bột màu trắng có khối lượng 9,012 gam, lấy mẫu gửi giám định (ký hiệu A3).

Tại Bản kết luận giám định số 937/KL-KTHS ngày 30/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Các mảnh viên nén màu hồng trong bì niêm phong ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma tuý loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,414 gam.

Chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A3 gửi giám định là chất Heroine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 9,012 gam.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Ngọc L khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 22/6/2022, L điều khiển xe mô tô BKS 20B1- xxxxx là xe L mượn của chị Nguyễn Thu T đi từ nhà đến khu vực đường tàu thuộc phường T, thành phố N mục đích mua ma tuý Heroine và Methamphetamine để bán kiếm lời. Tại đây, L gặp và mua Heroine và Methamphetamine của một người tên là T (không biết họ tên, tuổi, địa chỉ) 39 gói giấy bạc màu vàng và 01 gói giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột màu trắng; 01 túi nilon màu trắng bên trong có 07 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa mảnh viên nén màu hồng với giá 5.000.000 đồng. Mua xong L cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc mục đích để bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố N phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- Số tiền 3.710.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam thu giữ của L.

- 01 bì niêm phong ký hiệu A2 chứa 0,314 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2;

- 01 bì niêm phong ký hiệu A3 chứa 8,746 gam mẫu A3 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A3;

- 01 bì niêm phong ký hiệu A4 chứa vỏ bao gói mẫu ban đầu.

- 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 chứa 01 điện thoại di động OPPO.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu sơn: đỏ đen, BKS 20B1 – xxxxx. Số máy: 5C62-005229, số khung Y005229. Xe cũ, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của chị Nguyễn Thu T, sinh năm 1994, Nơi thường trú: tổ 01, phường H, thành phố B, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: tổ 6, phường V, thành phố N, Tỉnh Thái Nguyên.

Hiện số vật chứng nêu trên đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N chờ xử L.

Tại bản cáo trạng số 438/CT-VKSTPTN ngày 14/10/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm p khoản 2; khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 09 năm đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.

-Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì niêm phong ký hiệu A2 chứa 0,314 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2;

- 01 bì niêm phong ký hiệu A3 chứa 8,746 gam mẫu A3 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A3;

- 01 bì niêm phong ký hiệu A4 chứa vỏ bao gói mẫu ban đầu.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 3.710.000đ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R11 Plus màu đen đã qua sử dụng.

Trả cho chị Nguyễn Thu T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu sơn: đỏ đen, BKS 20B1 – xxxxx. Số máy: 5C62-005229, số khung Y005229

 - Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án:

Hồi 11 giờ 40 phut ngày 22/6/2022, tại tổ 12, phường T, thành phố N, Nguyễn Ngọc L có hành vi tàng trữ 0,414 gam Methamphetamine và 9,012 gam Heroine mục đích để bán kiếm lời thì bị tổ công tác cua Công an phường T, thành phố N phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét khẩn cấp; lơi khai cua bi cao tai cơ quan điều tra, lơi khai cua người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người chưng kiến; vật chứng đã thu giữ, bản kết luân giam đinh và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản L và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này”.

...

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có 01 tiền án, không có tiền sự nhưng có nhân thân rất xấu, đã từng bị xét xử nhiều lần. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục có hành vi phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4]. Vật chứng của vụ án:

Đối với 01 bì niêm phong ký hiệu A2 chứa 0,314 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2; 01 bì niêm phong ký hiệu A3 chứa 8,746 gam mẫu A3 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A3; 01 bì niêm phong ký hiệu A4 chứa vỏ bao gói mẫu ban đầu là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 3.710.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R11 plus màu đen đã qua sử dụng có số sim 03382xxxxx thu giữ của bị cáo, quá trình giải quyết vụ án xác định những tài sản này là của bị cáo, không có căn cứ chứng minh những tài sản này có liên quan đến hành vi phạm tội hoặc tội phạm nên cần trả cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo còn phải thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 20B1- xxxxx, xe đã qua sử dụng, đăng ký xe mang tên Nguyễn Hữu H, chị T xác định đã mua lại xe của ông H, ông H đã giao xe và giấy tờ cho chị T nhưng chị T chưa làm thủ tục sang tên mình, hiện chị đã làm mất giấy chứng nhận đăng ký xe. Kết quả điều tra cho thấy ông H đã bán xe, bàn giao xe và giấy tờ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Kết quả tra cứu xe máy vật chứng của cơ quan điều tra cũng cho thấy chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Do vậy, đủ căn cứ xác định chiếc xe này là của chị T. Chị T cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo sử dụng xe của mình đi mua bán ma túy, chị đề nghị được xin lại chiếc xe để quản lý, sử dụng. Xét thấy đề nghị của chị T là có căn cứ nên trả cho chị T chiếc xe mô tô để quản lý, sử dụng.

[5] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông tên T, không quen biết, không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu đường tàu phường T, thành phố N. Do không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng:

- Điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Ngọc L 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (nămi triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 03 bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A2, A3, A4.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 3.710.000đ (ba triệu bẩy trăm mười nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R11 Plus (điện thoại được đựng trong bì niêm phong ký hiệu Đ1).

+ Trả cho chị Nguyễn Thu T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu sơn: đỏ đen BKS 20B1 – xxxxx. Số máy: 5C62-005229, số khung Y005229.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho và tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố N. Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng số 122 ngày 21/11/2022 và Ủy nhiệm chi ngày 25/10/2022 giữa cơ quan Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố N).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Nguyễn Ngọc L chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 480/2022/HS-ST

Số hiệu:480/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về