TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 01/02/2023 đối với các bị cáo.
1. Giàng Thị P (tên gọi khác: Không) sinh ngày 31/12/1968, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A D (đã chết); Con bà Vàng Thị B (đã chết); Gia đình bị cáo có 05 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có chồng là Mùa A C, sinh năm 1964 và có 06 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18/4/2022, tạm giam từ ngày 24/4/2022 cho đến nay (có mặt).
2. Mùa A C (tên gọi khác: Không) sinh ngày 06/4/1964, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mùa A C (đã chết); Con bà Sùng Thị M, sinh năm 1927; Gia đình bị cáo có 03 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ là Giàng Thị P, sinh năm 1968 và có 06 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18/4/2022, tạm giam từ ngày 24/4/2022 cho đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Giàng Thị P: Bà Lê Thị X1, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Mùa A C: Bà Lò Thị X, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).
- Người phiên dịch cho các bị cáo: Ông Giàng A C - Sinh năm 2000; Địa chỉ: Đội 19, xã , huyện Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng ngày 14/4/2022, Giàng Thị P bảo chồng Mùa A C lấy xe máy chở P đi có việc, nghe P nói vậy C lấy xe máy chở P đi từ nhà đến đầu bản K, cách nhà P khoảng 3 km thì C đi sang nhà của cháu họ ở cùng bản chơi, còn P đi bộ một mình vào nhà Giàng A T có vợ tên là Mùa Thị Ch, P gặp Ch đang ngồi ở trong nhà bếp, P nói với Ch là P sẽ đi lên khu vực xã V, huyện P thăm người thân đồng thời tìm mua ma túy, P hỏi Ch có gửi mua gì không, nghe P nói vậy, Ch đi vào chỗ Giàng A T đang ngồi ở bàn uống nước trong phòng khách, nói chuyện gì với nhau P không rõ, một lúc sau Giàng A T đi ra đưa cho P 30 triệu đồng, nói gửi P mua hộ ma túy Heroine, nhưng ít nhất phải được 02 cây tiểu ly Heroine, P đồng ý cầm tiền rồi đi bộ lên đầu bản thấy C đang đứng đợi, C chở P đi về nhà. Tối ngày 16/4/2022, P rủ C đi thăm anh trai ruột P tên là Giàng Vảng T, nhà ở bản h, xã V, huyện N, C đồng ý.
Khoảng 04 giờ sáng ngày 17/4/2022 C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26B2-xxxxx chở P đi, khi đi P mang theo 50 triệu đồng, trong đó có 30 triệu đồng của Giàng A T gửi mua ma túy còn 20 triệu đồng là tiền của P và mang theo 01 túi vải màu xanh có dây đeo màu đen, 01 ba lô du lịch màu xanh đen đựng đồ cá nhân. Khoảng 17 giờ cùng ngày, C chở P đi đến khu vực đầu bản H, xã V, huyện N thì P bảo C không vào nhà anh Tnữa (anh trai P) đi tìm mua ma túy luôn, mua ma túy về để trả công cho người làm thuê và bán, C bảo ở đây có quen biết ai đâu mà mua, P nói cứ đi tìm hỏi mua. C tiếp tục chở P đi theo sự chỉ dẫn của P, khi đi qua bản H, xã V, do đường trơn không đi được xe máy và trời đã tối, C và P cất giấu xe máy và túi ba lô ở bụi cây ven đường rồi cả hai đi bộ theo đường mòn đi nương trong rừng, hướng sang khu vực biên giới không nhớ hết bao nhiêu thời gian thì đến một lán nương, không biết thuộc địa phận thuộc bản, xã nào của huyện N thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 50 tuổi đang đứng gần lán nương, người đàn ông hỏi C, P đi đâu, P nói đi tìm mua ít Heroine, người đàn ông mời C, P vào lán nương nghỉ. Khi vào trong lán nương thấy có 01 người phụ nữ, dân tộc Mông không rõ tên tuổi, sau đó người đàn ông hỏi P mua ma túy bao nhiêu tiền, P nói mua 50 triệu đồng, người đàn ông nói thế thì phải đợi. Tối hôm đó P và C ăn cơm cùng vợ chồng người Mông và ngủ lại ở lán nương. Sáng ngày 18/4/2022 người đàn ông gọi C, P dậy và đưa cho P 01 bọc gói nilon màu trắng, bên ngoại gói băng dính màu vàng, người đàn ông nói bên trong bọc có 08 cục Heroine, bán với giá 50 triệu đồng và cho thêm P 03 túi hồng phiến. P đồng ý mua và đưa cho người đàn ông đó 50 triệu đồng, lúc này có cả Mùa A C ở đấy nghe và nhìn thấy. Sau khi mua được ma túy C đi bộ ra chỗ giấu xe máy trước còn P cất ma túy vào túi vải mang theo và đeo trước bụng đi bộ ra chỗ C, do trời mưa đường trơn không đi được xe máy phải dắt bộ nên P lấy túi ba lô đi bộ trước, trên đường đi P bỏ túi vải chứa ma túy vào trong ba lô. Khi đi đến đường bê tông cách đầu bản H khoảng 300 m thì P để ba lô lên trên giá để hàng phía trước yên xe máy rồi C chở P về. Khoảng 10 giờ cùng ngày thì cả hai đi đến khu vực km 32 quốc lộ 4H, thuộc địa phận bản N1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên thì bị cơ quan chức năng phát hiện bắt giữ cùng vật chứng 295,7 gam Heroine và 61,71 gam Methamphetamine.
Tại bản Kết luận giám định số 571/KL-KTHS ngày 27/4/2022, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Giàng Thị P và Mua A C là 295,7 gam chất bột màu trắng đục; 61,71 gam các viên nén màu hồng.
- 08 (tám) mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng Thị P và Mùa A C gửi đến giám định là chất ma túy: Loại Heroine.
- 03 (ba) mẫu các viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng Thị P và Mùa A C gửi đến giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 08/CT-VKSTĐB-P1, ngày 27/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố Giàng Thị P và Mùa A C để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C; đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm như sau:
- Tuyên bố bị cáo Giàng Thị P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;
Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Giàng Thị P 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
- Tuyên bố bị cáo Mùa A C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Mùa A C 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
- Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 283,29 gam Heroine và 60,19 gam Methamphetamine là ma túy còn lại sau khi trích mẫu vật gửi giám định; 01 ba lô du lịch màu đen xanh, có hình logo quả táo màu đỏ đã cũ, qua sử dụng Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, loại Ware RSX; số máy: JA32E0079938; Số khung: RLHJA3229EY080022, biển kiểm soát 26B2-xxxxx, xe đã qua sử dụng.
Trả lại cho các bị cáo: 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm loại trùm đầu, màu đỏ xám, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe số 253403 mang tên Mùa A C; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vivo màu hồng, bên trong có lắp 02 sim Viettel, tạm giữ của Giàng Thị P.
- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C.
Người bào chữa cho bị cáo Giàng Thị P không có ý kiến tranh luận gì về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời không có ý kiến khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, mặt khác số ma túy đã kịp thời bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội, bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị xét xử về một tội danh nào khác, chưa bị xử lý hành chính, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Giàng Thị P, để bị cáo có cơ hội được trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo không bổ sung thêm bài bào chữa của Luật sư và không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Mùa A C không có ý kiến tranh luận gì về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời không có ý kiến khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, mặt khác số ma túy đã kịp thời bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội, bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị xét xử về một tội danh nào khác, bị cáo không phải là người giữ vai trò chính chỉ là người thực hành, bị cáo chưa bị xử lý hành chính, bị cáo phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Mùa A C, để bị cáo có cơ hội được trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo không bổ sung thêm bài bào chữa của Luật sư và không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, các bị cáo cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh về tội danh cũng như hình phạt; trong lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Hồi 09 giờ 45 phút ngày 18/4/2022 tổ công tác Công an huyện N phối hợp với tổ công tác số 2, Kế hoạch 1266 Công an tỉnh Điện Biên và Đồn Biên phòng Si Pha Phìn làm nhiệm vụ tại khu vực Km 32, Quốc lộ 4H, thuộc bản N 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên, phát hiện bắt quả tang Mùa A C đang điều khiển xe mô tô chở Giàng Thị P ngồi sau xe, cả hai đang thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với 295,7 gam Heroine và 61,71 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng 02 chất ma tuý 357,41 gam. Mục đích để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01-04); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 80); biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại đồ vật, tài liệu (BL 93-94); kết luận giám định (BL 97) và phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở để xác định ngày 18/4/2022 bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C đã có hành vi mua bán trái phép 295,7 gam Heroine và 61,71 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng 02 chất ma tuý 357,41 gam.
Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
…h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.
Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Cáo trạng số 08/CT-VKSTĐB-P1, ngày 27/12/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, Bị cáo không bị oan sai.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời của bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác, ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân có thể phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C có ý thức chấp hành pháp luật kém, bản thân hám lợi. Chính vì vậy, các Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra.
- Xét về vai trò của các bị cáo, đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo Giàng Thị P là người khởi xướng và giữ vai trò chính, bị cáo Mùa A C là người giúp sức tích cực, do đó các bị cáo phải chịu mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.
- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Giàng Thị P về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 để cân nhắc hình phạt phù hợp với điều kiện hoàn cảnh phạm tội của bị cáo là có căn cứ chấp nhận; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo, bởi vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, đề nghị của người bào chữa là có căn cứ để chấp nhận.
- Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Mùa A C về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 để cân nhắc hình phạt phù hợp với điều kiện hoàn cảnh phạm tội của bị cáo là có căn cứ chấp nhận; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo, bởi vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, đề nghị của người bào chữa là có căn cứ để chấp nhận.
Hội đồng xét xử xét thấy, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là có căn cứ phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và các quy định của pháp luật. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C nhằm mục đích nhằm để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời, tuy đã được các cơ quan chức năng phát hiện, ngăn chặn kịp thời; nhưng khối lượng chất ma túy mà bị cáo trao đổi mua bán trái phép đặc biệt lớn, nếu không được các cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời thì hậu quả mà bị cáo gây ra cho xã hội đặc biệt nghiêm trọng, biết bao nhiêu gia đình phải tan vỡ, nghèo nàn vì tệ nạn ma túy gây ra và cũng là nguyên nhân có thể làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do vậy, cần thiết phải áp dụng hình phạt phù hợp đối với các bị cáo, cảnh báo chung cho toàn xã hội, đảm bảo sự trừng phạt nghiêm khắc đối với người phạm tội; răn đe, phòng ngừa và trấn áp tội phạm ma túy trong giai đoạn hiện nay.
[3] Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C tại phiên tòa đều cho thấy nghề nghiệp chính của bị cáo trước khi bị bắt là làm nông nghiệp, lao động tự do, không có nguồn thu nhập nào khác, điều kiện kinh tế khó khăn; nếu có áp dụng thì bị cáo cũng không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an huyện N tổ công tác 1266 Công an tỉnh Điện Biên và Đồn Biên phòng Si Pha Phìn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.
[5] Về vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Đối với 283,29 gam Heroine và 60,19 gam Methamphetamine là ma túy còn lại sau khi trích mẫu vật gửi giám định; 01 ba lô du lịch màu đen xanh, có hình logo quả táo màu đỏ đã cũ, qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, loại Ware RSX; số máy: JA32E0079938; Số khung: RLHJA3229EY080022, biển kiểm soát 26B2- xxxxx, xe đã qua sử dụng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:
- Trả lại cho các bị cáo: 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm loại trùm đầu, màu đỏ xám, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe số 253403 mang tên Mùa A C; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vivo màu hồng, bên trong có lắp 02 sim Viettel, tạm giữ của Giàng Thị P.
[6] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C.
[7] Các vấn đề khác:
Theo lời khai của bị cáo Giàng Thị P số tiền 50 triệu đồng mang đi mua ma túy trong đó của P có 20 triệu đồng còn 30 triệu đồng là của Giàng A T có vợ là Mùa Thị Ch trú tại bản P, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La gửi nhờ P mua hộ Heroine, qua điều tra xác minh nhiều lần, hiện tại Giàng A T và Mua Thị Ch không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra xác minh nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
1. Tuyên bố:
1.1. Bị cáo Giàng Thị P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Giàng Thị P 20 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/4/2022.
1.2. Bị cáo Mùa A C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mùa A C 20 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/4/2022.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 283,29 gam Heroine và 60,19 gam Methamphetamine là ma túy còn lại sau khi trích mẫu vật gửi giám định; 01 ba lô du lịch màu đen xanh, có hình logo quả táo màu đỏ đã cũ, qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe máy mang tên Mùa A C.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, loại Ware RSX; số máy: JA32E0079938; Số khung: RLHJA3229EY080022, biển kiểm soát 26B2-xxxxx, xe đã qua sử dụng, thu giữ của Mùa A C và Giàng Thị P.
- Trả lại cho các bị cáo: 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm loại trùm đầu, màu đỏ xám, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe số 253403 mang tên Mùa A C; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vivo màu hồng, bên trong có lắp 02 sim Viettel, tạm giữ của Giàng Thị P.
(Theo Biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 27/12/2022 giữa Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Điện Biên và Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên)
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Giàng Thị P và bị cáo Mùa A C có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/02/2023).
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 44/2023/HS-ST
Số hiệu: | 44/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về