Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 44/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 2 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phạm Minh T, sinh năm 198X tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ huyện K, TP.Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn K và bà Phạm Thị L (đã chết); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Án số 46/2006/HSST ngày 29/09/2006, Toà án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản (đã xóa án); bị tạm giữ ngày 26/09/2020 đến ngày 01/10/2020 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Nguyễn Văn C (tên gọi khác là Nguyễn Văn H), sinh năm 198Y tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn N, xã Đo, huyện K, TP. Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C và bà Ngô Thị D; có vợ là Đỗ Thị N (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/09/2020 đến ngày 01/10/2020 chuyển tạm giam; có mặt - Người bào chữa cho bị cáo Phạm Minh T: Ông Nguyễn Xuân T1 – Luật sư của Văn phòng luật sư Y thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phạm Văn K, sinh năm 196H; địa chỉ: Thôn V, xã Đ, huyện K, TP. Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 26/9/2020 tại phòng riêng của Phạm Minh T ở nhà nghỉ K, thôn V, xã Đ, huyện K, Hải Phòng, tổ công tác của Đồn Biên phòng Đ -Bộ đội Biên phòng thành phố Hải Phòng kết hợp với các lực lượng chức năng bắt quả tang Phạm Minh T, sinh năm 1986, trú quán Thôn V, xã Đ, huyện K, Hải Phòng và Nguyễn Văn C, sinh năm 1982, trú quán Thôn N, xã Đ, huyện K, Hải Phòng có hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý. Thu giữ 01 hộp sắt có chữ Mentos đựng 30 đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng (qua giám định có 0,93 gam ma túy loại Heroine) cùng 1.000.000 đồng. Ngoài ra còn thu giữ 01 bình thuỷ tinh, trên có hai lỗ cắm nỏ thuỷ tinh và ống nhựa.

Khám xét tại phòng ngủ của Phạm Minh T tại nhà nghỉ K thu giữ 24.000.000 đồng, 03 cân điện tử, 02 dao lam, 20 đoạn ống hút nhựa, 20 túi nilon; 01 hộp bìa trong có 04 hộp kim loại chứa 278 đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu đều chứa chất bột màu trắng; 01 túi da đựng 01 túi nilon chứa chất bột dạng cục màu trắng và 95 đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng (qua giám định có 47,63 gam ma túy loại Heroine, 9,27gam ma túy loại Methampetamine).

Tại Cơ quan điều tra Phạm Minh T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 23/9/2020, có một người đàn ông tên Chuyên (không rõ lai lịch địa chỉ) đến nhà nghỉ K của gia đình T gạ bán ma túy cho T. T đã mua 2.000.000 đồng Heroine và 1.000.000 đồng ma túy đá và chia nhỏ cho vào các đoạn ống nhựa nhỏ, hàn kín hai đầu rồi cất giấu vào trong phòng với mục đích sử dụng và bán kiếm lời. T lấy một số ống ma túy cho vào hộp sắt Mentos đặt lên mặt bàn để bán cho khách. Tối ngày 25/09/2020 T lấy một ít ma túy đá cho vào coóng sử dụng rồi đi ngủ. Đến khoảng 04 giờ 30 phút ngày 26/09/2020, Nguyễn Thị Ngọc L, sinh 200H, trú quán tổ dân phố B, phường B, quận Đ (bạn xã hội của T) đến phòng ngủ của T thấy trong coóng có ma túy đá đã tự ý sử dụng. Khoảng 7 giờ sáng cùng ngày Nguyễn Văn C (bạn xã hội của T) đến phòng của T hỏi mua 100.000 đồng ma túy. Khi T đi lấy ma túy thì C nhìn thấy trong coóng có ma tuý đá liền tự ý sử dụng. Sau đó T đưa cho C 01 ống Heroine, do T vẫn phê ma tuý muốn nằm nghỉ nên T thoả thuận với C là ống Heroine T không lấy tiền, C ở lại bán ma tuý hộ T coi như T trả công cho C. T bảo C nếu có khách mua ma túy thì C lấy ma túy để trong hộp sắt Mentos trên bàn bán cho khách rồi để tiền trên bàn cho T. C đồng ý và đã bán ma túy cho khoảng 4- 5 người không đến cùng một lúc, thu tiền cho T. Sau đó T và C bị bắt cùng toàn bộ số ma túy.

Nguyễn Văn C khai nhận về việc thỏa thuận C bán hộ ma túy và trả công bằng ống ma túy như lời khai của T. C khai trong thời gian sáng 26/09/2020 C đã bán hộ T 500.000 đồng ma túy cho 5 người khách không đi cùng với nhau (C không biết lai lịch địa chỉ). C chỉ thỏa thuận giúp T lấy ma túy ở hộp sắt Mentos trên bàn bán cho khách. Ngoài ra C không biết T giấu ma túy ở đâu. Đến 9 giờ 30’ cùng ngày thì T và C bị bắt.

Về vật chứng, đồ vật, tài liệu gồm: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định;

01 bình thuỷ tinh, trên có hai lỗ cắm nỏ thuỷ tinh và ống nhựa; 03 cân điện tử, 02 dao lam, 20 đoạn ống hút nhựa, 20 túi nilon; số tiền 25.000.000đ.

- Tại Bản Cáo trạng số 26/CT-VKS-P1 ngày 27 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố Phạm Minh T về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn C về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên toà, các bị cáo khai: Số ma túy mua của Chuyên, T đã chia nhỏ cho vào các đoạn ống nhựa nhỏ, hàn kín hai đầu với mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 7 giờ sáng ngày 26/09/2020 C đến mua 100.000 đồng ma túy sử dụng tại chỗ, nhưng do không đủ tiền trả T nên C đề xuất sẽ ở lại bán ma tuý hộ T coi như T trả công cho C. T bảo C nếu có khách mua ma túy thì C lấy ma túy để trong hộp sắt Mentos trên bàn bán cho khách rồi để tiền trên bàn. C đồng ý và đã bán ma túy cho khoảng 4-5 người thì bị bắt cùng toàn bộ số ma túy còn lại. Tiền thu giữ được tại nhà T có 1.000.000 đồng là tiền liên quan đến ma túy, 24 triệu đồng còn lại là tiền T thu từ kinh doanh nhà nghỉ, nhưng chưa kịp bàn giao cho gia đình.

+ Ông Phạm Văn K là bố đẻ bị cáo T khai: Ông không biết gì về việc T mua bán ma túy, đối với số tiền 24.000.000 đồng thu giữ trong phòng ngủ là tiền có được từ việc kinh doanh nhà nghỉ, dùng cho việc chi tiêu sinh hoạt chung của cả gia đình ông đề nghị Tòa án trả lại.

+ Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm h khoản 3 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 55, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Minh T từ 15 đến 16 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; phạt tiền bị cáo 10 triệu đến 20 triệu đồng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 5 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 07 đến 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; phạt tiền bị cáo 5 triệu đến 10 triệu đồng. Đề nghị xử lý vật chứng theo qui định của pháp luật.

+ Người bào chữa cho bị cáo Phạm Minh T không có ý kiến tranh luận về tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc các bị cáo đã thành khẩn khai báo đã giúp cho các cơ quan pháp luật xử lý vụ án được nhanh chóng, đúng người, đúng tội để cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

+ Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh và khung hình phạt, phần lời nói sau cùng các bị cáo xin pháp luật Kn hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi như đã nêu trên. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng; bản kết luận giám định; vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét công khai tại phiên tòa, nên đủ cơ sở kết luận: Phạm Mimh T đã mua 48,56 gam Heroine và 9,27 gam Methamphetamine với mục đích vừa sử dụng vừa bán kiếm lời. Ngày 26/9/2020, T đã bán cho C 01 ống ma túy và để cho C giúp T bán ma túy bán ma túy cho 5 người để trả công, còn lại 0,93 gam ma túy loại Heroine chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đều cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy; Phạm Minh T phạm vào điểm h khoản 3 Điều 251; Nguyễn Văn C phạm vào điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; hành vi phạm tội của các bị cáo không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước ta mà còn gây mất trị an xã hội ở địa phương và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác. Các bị cáo là đối tượng nghiện, cùng tham gia tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân và bán cho nhiều người khác để kiếm lời. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, nhưng cũng xem xét để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần do có thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo C phạm tội lần đầu.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Minh T đã thực hiện hành vi mua bán ma túy với 02 người trở lên (lần đầu bán ma túy cho C, lần 2 chỉ đạo C bán ma túy cho người khác) nên phải chịu tình tiết tăng nặng Phạm tội 02 lần trở lên qui định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, bị cáo Nguyễn Văn C bán ma túy cho 5 người nhưng tình tiết này đã coi là tình tiết định khung nên không coi là tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về vai trò và quyết định hình phạt chính: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nên cần căn cứ Điều 58 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt. Bị cáo Phạm Minh T là người chủ mưu, trực tiếp mua ma túy bán cho C và thỏa thuận trả công cho C bằng ma túy để C bán ma túy cho nhiều người. Bị cáo từng bị xử án treo về tội trộm cắp nhưng đã xóa án tích được hơn 10 năm, đến nay được coi là không có tiền án, tiền sự. Bị cáo T phạm tội có 2 tình tiết giảm nhẹ và 01 tình tiết tăng nặng; khi bị bắt đã thành khẩn khai báo giúp Cơ quan pháp luật nhanh chóng kết thúc vụ án. Bị cáo C có vai trò xếp sau bị cáo T, tham gia phạm tội tích cực; nhân thân không tiền án, tiền sự; được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ. Do đó, có thể xử phạt các bị cáo mức hình phạt theo mức khởi điểm của khung hình phạt theo đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T phạm tội đặc biệt nghiêm trọng vì vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo mức khởi điểm mà Kiểm sát viên đã đề nghị tại phiên tòa. Bị cáo C là người tham gia đồng phạm với vai trò giúp sức, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản riêng nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định cùng 02 dao lam; 20 ống hút nhựa màu trắng dài khoảng 1,8x0,8cm; 20 túi nilon màu trắng; 01 bình thủy tinh cao khoảng 14cm; đường kính khoảng 06cm trên đỉnh có cắm 02 lỗ;

01 lỗ cắm ống nhựa, 01 lỗ cắm nỏ thủy tinh; 03 cân điện tử màu đen có liên quan đến ma túy hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 1.000.000 đồng thu của T liên quan đến mua bán ma túy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Số tiền 24.000.000 đồng còn lại là tài sản chung của gia đình T có được từ việc kinh doanh nhà nghỉ, nên cần giữ lại một phần để đảm bảo thi hành án, phần còn lại trả cho ông K cùng 01 đầu ghi hình nhãn hiệu Ahua.

[9] Việc Nguyễn Thị Ngọc L và việc Nguyễn Văn C tự ý sử dụng ma túy tại nơi ở của T, không có sự rủ rê, đồng ý của T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét xử lý đối với Phạm Minh T về hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy hay tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; Nguyễn Thị Ngọc L đã bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.

[10] Trong vụ án này còn có người đàn ông tên Chuyên mà T khai đã bán ma túy cho T tại nhà nghỉ K và các đối tượng mua ma túy của T nhưng không xác định được lai lịch, địa chỉ, vì vậy không có cơ để xử lý.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm h khoản 3 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Minh T 15 (mười lăm) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2020; phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác là Nguyễn Văn Huy) 07 (bảy) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định chứa trong 01 phong bì có dấu niêm phong số 621/2020/PC09 và có chữ ký Đỗ Duy Thanh, Phạm Minh T, Lê Đình Thạo; 01 phong bì có dấu niêm phong số 622B/2020/PC09 và chữ ký của Phạm Minh T, Lê Đình Thạo; 01 hộp có dấu niêm phong số 622/2020/PC09 và chữ ký Đỗ Duy Mạnh, Phạm Minh T, Lê Đình Thạo; 02 dao lam; 20 ống hút nhựa màu trắng dài khoảng 1,8x0,8cm; 20 túi nilon màu trắng; 01 bình thủy tinh cao khoảng 14cm; đường kính khoảng 06cm trên đỉnh có cắm 02 lỗ; 01 lỗ cắm ống nhựa, 01 lỗ cắm nỏ thủy tinh; 03 cân điện tử màu đen. Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng cơ quan công an thu giữ của bị cáo T;

+ Tạm giữ số tiền 10.000.000 đồng (nằm trong số 24.000.000VNĐ là tang vật của vụ án) để bảo đảm việc thi hành án phạt tiền của Phạm Minh T. Số tiền 14.000.000 đồng còn lại và 01 đầu ghi hình nhãn hiệu Ahua trả lại cho ông Phạm Văn K.

(Vật chứng và tiền được lưu giữ theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 08/02/2021; 25/02/2021 và biên lai thu tiền số 0004325 ngày 28 tháng 01 năm 2021tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng) -Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm;

-Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và ông Phạm Văn K đều có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

-Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 44/2021/HS-ST

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về