Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 43/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST-HS ngày 20/4/2020 đối với bị cáo:

Đặng Thị H , Sinh năm 1979 tại: huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá; ĐKNKTT: Khu phố 1, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn D và bà Dương Thị M ( đều đã chết ); Gia đình có 03 Chị em (Bị cáo là con đầu); Chồng: Lương Văn Y, sinh năm 1972 (đã ly hôn); Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1995; con nhỏ nhất mới sinh ngày 03 tháng 2 năm 2020 tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2009 bị TAND huyện Như Xuân tuyên phạt 05 năm tù về Tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 02/5/2012 ra trại (đã được xóa án tích); Tạm giữ, tạm giam: 05/11/2019 tại Trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Mai Văn Bắc – VPLS Bắc Thành, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Ngọc D, sinh năm 1985 ĐKNKTT: Thôn Q, xã Ngọc P, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Nguyễn Phương N.

ĐKNKTT: Ngân hàng H, quận Hoàn Kiếm, Tp Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 03/11/2019 Đặng Thị H, sinh năm 1979, ĐKHKTT: Khu phố 1, Thị trấn Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa gọi điện cho người phụ nữ tên H nhà ở tỉnh Nam Định (là người quen trước đây cùng H chấp hành án tại Trại giam T từ năm 2009) để hỏi mua 01 cây Heroine, H và H thỏa thuận bán giá 01 cây Heroin là 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng). H hẹn với H, trưa ngày 04/11/2019 sẽ gặp tại khu vực BigC - TP.Nam Định để nhận tiền và giao Heroine. Sáng ngày 04/11/2019 H một mình bắt xe khách đi từ TP.Thanh Hóa đến khu vực siêu thị BigC thuộc Thành Phố Nam Định để gặp H. Khoảng 11 giờ cùng H đến khu vực siêu thị BigC - TP.Nam Định và gọi điện thông báo cho H biết mình đã đến điểm hẹn. Khoảng 01 giờ sau H một mình đi xe máy đến gặp H tại khu vực BigC - TP.Nam Định, tại đây H đưa cho H số tiền 25.000.000đ và H đưa lại cho H 01 cây heroine được đựng trong 02 túi nilon trong suốt. H nhận Heroin và cất giấu vào trong túi xách cá nhân rồi bắt xe Khách về TP.Thanh Hóa. Cùng ngày khi về đến phòng trọ ở đường Hải Thượng Lãn Ông, Tp. Thanh Hóa H lấy 02 túi Heroine trong túi xách ra và cất giấu dưới gầm giường. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 05/11/2019, H lấy số heroine đã cất giấu bỏ vào túi xách cá nhân, đi bộ ra đường Hải Thượng Lãn Ông bắt xe khách đi đến ngã tư đường Hồ Chí Minh thuộc xã X, huyện Thọ Xuân rồi bắt xe Taxi, BKS 36A-xxxxx do anh Lê Xuân T, sinh năm: 1984, ĐKHKTT: xã X, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa lái xe, đi đến nhà bà D ở Thôn L, xã V, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa (là người quen thời gian cùng đi tù) với ý định nhờ Bà D tìm người mua Heroine để bán lại kiếm lời.

Khoảng 09 giờ 00 phút khi H đến gần nhà bà D, vừa xuống xe và đi bộ thì bị Công an huyện Thường Xuân kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tang vật và tài sản thu giữ gồm:

- 02 (hai) túi nilon trong suốt bên trong đều Chất bột màu trắng dạng nén; 01 túi xách tay có hai quai màu đỏ; 01 Căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 đều mang tên Đặng Thị H; 01 điện thoại di động Itel, màu vàng đồng, màn hình đã bị vỡ; tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam:

7.980.000đ( bảy triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).

- 01 (một) xe ô tô màu trắng, nhãn hiệu Huyndai I10, biển số: 36A-xxxxx (kèm theo đăng ký xe ); 01(một) điện thoại di động SamSung Glayxy J5 màu vàng đồng; 01(một) ví da màu đen; 01(một) căn cước công dân mang tên Lê Xuân T;

01(một) đăng ký xe ô tô BKS 36A-xxxxx; 01(một) giấy phép lái xe ô tô mang tên Lê Xuân T; 01(một) giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Trần Văn Tuấn;

01(một) đăng ký xe máy, biển số 36D1-xxxxx; tiền VNĐ: 3.450.000đ (Ba triệu bốn trăm năm mười nghìn đồng) - Tạm giữ của Anh Nguyễn Tiến S, sinh năm: 1974, ĐKHKTT: xã D, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa 01 (một) xe ôtô, màu trắng, nhãn hiệu Huyndai Acent, biển số 36A-xxxxx.

Tại bản Kết luận giám định số: 2454/PC09 ngày 06/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Chất bột màu trắng dạng nén trong hộp giấy niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 39,490 gam (ba chín phảy bốn chín không gam): loại Heroin (BL 26);

Do có hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số 14/Ctr-VKS-P1 ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Đặng Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 3 Điều 251 BLHS.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Đặng Thị H về hành vi nêu trên và đề nghị HĐXX áp D điểm b Khoản 3, Điều 251 Bộ luật hình sự 2015; điểm s, điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 38 BLHS; Tuyên bố bị cáo Đặng Thị H phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy“ ;Xử phạt bị cáo Đặng Thị H 15 đến 16 năm tù; bị cáo hoàn cảnh khó khăn nuôi con nhỏ nên miễn hình phạt bổ sung và xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Đồng tình với cáo trạng của Viện kiểm sát về tội danh. Đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình điều tra và truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo đã ly hôn chồng và phạm tội khi đang mang thai, hiện đang nuôi con nhỏ mới sinh ngày 03/02/2020. Đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức án thấp nhất của khung hình phạt liền kề.

Bị cáo nói lời sau cùng xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra truy tố, các quyết định tố tụng, và hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được, phù hợp với tang vật chứng trong vụ án, đủ căn cứ và cơ sở để kết luận: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 05/11/2019, tại Thôn L, xã V, huyện Thường Xuân Đặng Thị H đã có hành vi tàng trữ trái phép 39,490gam ma túy, loại Heroin với mục đích mang đi bán để kiếm lời thì bị Công an huyện Thường Xuân bắt quả tang cùng tang vật.

Trong vụ án này, Lê Xuân T, là người lái xe Taixi cho H để lấy tiền công, anh T không biết Đặng Thị H cất giấu ma túy, vì vậy không có căn cứ để xử lý.

Đối với người phụ nữ tên H ở Tp, Nam Định, Đặng Thị H khai nguồn gốc số ma túy bị bắt quả tang là của H, nhưng H không biết họ, địa chỉ cụ thể, không nhớ số điện thoại của người này; Đối với Bà D nhà ở Thôn L, xã V, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa là người Đặng Thị H có ý định nhờ tìm người mua Heroine của H, nhưng Đặng Thị H chưa gặp, chưa trao đổi ý định trên với bà D. Vì vậy không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý hình sự đối với người phụ nữ tên H và bà D.

[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, và hình phạt đối với các hành vi phạm tội về ma túy rất nghiêm khắc, nhưng do động cơ vụ lợi, Đặng Thị H đã trục tiếp thực hiện tội phạm tích cực đến cùng. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý ma túy của nhà nước, mà còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình chính trị, trị an xã hội, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân.

[4]Tổng khối lượng39,490 gam ma túy loại Heroin bị cáo Đặng Thị H đã tàng trữ với mục đích để bán kiếm lời tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 BLHS 2015 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Ý Thức chủ quan và động cơ, mục đích của bị cáo Đặng Thị H là mua ma túy và bán lại nhằm mục đích kiếm lời, việc bị tổ công tác Công an huyện Thường Xuân phát hiện và bắt quả tang nằm ngoài ý chí chủ quan của bị cáo do đó bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

[6]Bị cáo đủ tuổi chịu TNHS và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS.

[7] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Hoàn cảnh gia đình bị cáo đặc biệt: đã ly hôn chồng và bị cáo mang thai đến ngày 03 tháng 02 năm 2020 (hiện tại đã sinh con trong trại tạm giam); bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khẩn khai báo và người phạm tội là phụ nữ có thai quy định điểm s, điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên khối lượng ma túy bị cáo mua bán nếu trót lọt sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi của đất nước, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho toàn xã hội. Trong khi tình hình mua bán ma túy trên địa bàn tỉnh tỉnh Thanh Hóa diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều chiến sỹ biên phòng đã ngã xuống trên mặt trận phòng chống ma túy. Do đó khi lượng hình HĐXX cũng cần có mức xử phạt thật nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ cải tạo để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho cộng đồng và xã hội.

[8] Vật chứng: Áp D Điều 46; Điều 47 ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015xử lý vật chứng như sau:

- 02 (hai) túi nilon trong suốt bên trong đều Chất bột màu trắng dạng nén là vật nhà nước cấm lưu hành, 01 túi xách tay có hai quai màu đỏ không còn giá trị sử D nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 Căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 đều mang tên Đặng Thị H là giấy tờ tùy thân của bị cáo cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- 01 điện thoại di động Itel, màu vàng đồng, màn hình đã bị vỡ là pH tiện dùng để phạm tội cần tịch thu xung công.

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 7.980.000đ( bảy triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng) không liên quan đến quá trình phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 (một) xe ô tô màu trắng, nhãn hiệu Huyndai I10, biển số: 36A-xxxxx (kèm theo đăng ký xe ); 01(một) điện thoại di động SamSung Glayxy J5 màu vàng đồng; 01(một) ví da màu đen; 01(một) căn cước công dân mang tên Lê Xuân T;

01(một) đăng ký xe ô tô BKS 36A-xxxxx; 01(một) giấy phép lái xe ô tô mang tên Lê Xuân T; 01(một) giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Trần Văn Tuấn;

01(một) đăng ký xe máy, biển số 36D1-xxxxx; tiền VNĐ: 3.450.000đ (Ba triệu bốn trăm năm mười nghìn đồng). Anh T không biết H cất giấy ma túy trên xe của mình nên các vật chứng trên không liên quan đến vụ án. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp pháp luật.

- Đối với chiếc xe ô tô màu trắng, nhãn hiệu Huyndai Acent, BKS 36A- xxxxx tạm giữ của Anh Nguyễn Tiến S. Qua xác minh Đặng Thị H đứng tên chủ sỡ hữu và hiện đang thế chấp là tài sản đảm bảo để vay trả góp tại ngân hàng VIB, chi nhánh Thanh Hóa. Ngày 03/10/2019 Anh Nguyễn Tiến S đã giới thiệu cho Đặng Thị H cầm cố chiếc xe trên cho anh Lê Ngọc D, sinh năm 1985, trú thôn Quyết Tiến, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân để vay số tiền 100.000.000đ, số tiền này H đã dùng để trả nợ và mua ma túy. Sau khi anh D nhận xe từ H, anh D đã giao cho anh S quản lý, sử D cho đến khi bị Cơ quan CSĐT tạm giữ. Ngày 14/01/2020 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa và tại phiên tòa HĐXX đã cho Bị cáo Đặng Thị H làm việc với Ngân hàng VIB và anh Lê Ngọc D để thỏa thuận nhưng các bên không thống nhất được việc giải quyết hợp đồng. Nhận thấy Hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo của H với Ngân hàng VIB chi nhánh Thanh Hóa theo Hợp đồng tín D số 425CN2492HĐTD.VIB.2018, là hợp đồng có trước và đúng quy định, việc bị cáo H cầm cố xe ô tô cho anh D là thời điểm sau khi xe đã thế chấp ngân hàng, trong khi bị cáo H phải đi chấp hành án nên khả năng trả nợ hạn chế. Do đó HĐXX giao xe ô tô Huyndai Acent, BKS 36A-xxxxx hiện đang lưu giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa cho cho Ngân hàng tH mại cổ phần quốc tế Việt Nam VIB để quản lý và xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

[9] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào các điều: điểm b Khoản 3 Điều 251 BLHS; điểm s, điểm n khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 38 BLHS; Điều 47 BLHS, Điều 106; Điều 136 BLTTHS; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về án phí lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Đặng Thị H phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy “.

3. Xử phạt: Đặng Thị H 15 (mười lăm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 05/11/2019.

4. Về tang vật:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy thu được trong vụ án còn lại sau giám định đã được niêm phong là vật nhà nước cấm lưu hành; 01 túi xách tay nâu kẻ sọc đỏ đã hết giá trị sử D (theo mục 1, mục 7);

- Tịch thu xung công: 01 điện thoại di động Itel, màu vàng đồng, màn hình đã bị vỡ;

- Trả lại :

+ Số tiền 7.980.000đ (Bảy triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng ) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam cho bị cáo Nguyễn Thị H (mục 2) + 01 Giấy chứng nhận kiểm định ô tô BKS 36A-xxxxx; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe ô tô số B18/01/56/338; 01 Giấy phép lái xe ô tô số 38113802xxxx; 01 giấy phép lái xe số AE 223850; 01 căn cước công dân (đều mang tên Đặng Thị H (Mục 3,4,5,6, 8) cho bị cáo Đặng Thị H.

- Giao 01 ô tô nhãn hiệu Huyndai Acent màu trắng BKS 36A-xxxxx, 01 chìa khóa xe (là tài sản bị cáo H thế chấp) cho Ngân hàng thương H Việt Nam , quản lý và xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật (Mục 9).

Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 51/2020/TV-CTHADS ngày 10 tháng 3 năm 2020 giữa Phòng PC 04 Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Thanh Hóa và Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa và giấy nộp tiền vào tài khoản số 394901054xxxxxxxxxx ngày 10/3/20120 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa.

5. Án phí: Bị cáo Đặng Thị H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Đặng Thị H, có mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 43/2020/HS-ST

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về