Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 395/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 395/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 424/2021/TLST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 411/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phạm Tiến T, sinh năm 1996 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn 13, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc C và bà Vũ Hồng T; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 21/5/2021.

2. Trần Quốc L, sinh năm 1992 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn 11, xã E, huyện Cư K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc H và bà Phan Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 21/5/2021.

3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1989 tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Ấp 5, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị T; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị X và một người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 21/5/2021.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Trần Xuân D, sinh năm 1982. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 20/5/2021, Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường An Phú, thành phố Thuận An kiểm tra hành chính cơ sở kinh doanh Karaoke Suối Reo, địa chỉ 151/1, khu phố 1A, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khi kiểm tra đến phòng Karaoke số 03 phát hiện bên trong phòng có 02 nam thanh niên là Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L đang ở trong phòng. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trên bàn mặt kính trong phòng có 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 02 viên nén màu xanh (nghi vấn ma túy tổng hợp), lúc này Đ và L khai nhận là ma túy loại thuốc lắc của Đ và L mua để sử dụng nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L để xử lý.

Qua làm việc Nguyễn Văn Đ, Trần Quốc L khai nhận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 20/5/2021, Đ và L cùng rủ nhau đi hát Karaoke và tìm nơi sử dụng ma túy. Điệp sử dụng số điện thoại 0985.042.074 của Điệp gọi vào số 0879.998.678 của nam thanh niên tên T để hỏi thuê phòng sử dụng dịch vụ hát Karaoke. Khi cả hai đến quán Karaoke Suối Reo, địa chỉ 151/1, khu phố 1A, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì L đi vệ sinh, còn Đ gặp T được T dẫn đến phòng Karaoke 3, trên đường đi T hỏi Đ có nhu cầu sử dụng ma túy hay không và T báo giá 300.000 đồng/01 viên thì Đ nói T lấy 02 viên thuốc lắc. Đ vào phòng Karaoke số 03 ngồi chờ thì T mang vào 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa 03 viên nén màu xanh để trên bàn. Cùng lúc này, L đi vào hỏi T về giá của 03 viên ma túy trên bàn và trực tiếp trả số tiền 900.000 đồng cho T. Sau đó, L lấy 01 viên ma túy ra sử dụng, còn lại 02 viên ma túy để lại trên bàn, riêng Đ chưa kịp sử dụng ma túy thì lực lượng Công an kiểm tra phát hiện. Đ và L khai nhận số ma túy trên là do Đ và L hùn tiền mua để sử dụng chung, do Đ không đem theo tiền nên Đ kêu L trả tiền trước sau đó về Đ sẽ trả lại tiền cho L.

Cơ quan công an làm việc với Phạm Tiến T, T khai nhận: T là nhân viên đang phục vụ tại quán Karaoke Suối Reo. Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 20/5/2021 Điệp đi cùng 01 người bạn tên L đến quán Karaoke Suối Reo nên T chủ động hỏi Đ có nhu cầu sử dụng ma túy hay không thì Đ kêu T lấy 02 viên thuốc lắc. Sau đó, Đ và L vào phòng Karaoke số 03. T đi ra khu vực cổng quán Karaoke Suối Reo gặp 01 người thanh niên tên Gồ (có đặc điểm khoảng 30 tuổi, cao 1m7, nói giọng miền Nam) lấy 01 túi nylon bên trong chứa 03 viên thuốc lắc rồi quay vào phòng Karaoke số 03 đưa cho Đ thì được L trực tiếp đưa cho T 900.000 đồng tiền mua ma túy, sau đó T đưa trả lại số tiền trên cho Gồ. Cùng ngày, cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Tiến T về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ: 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa hai viên nén màu xanh; 01 điện thoại di động màu xanh đen ghi chữ HUAWEI kèm sim số: 0384.948.548 và sim 0985.042.074 của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu đen kèm sim số: 0879.998.678 của Phạm Tiến T.

Tại bản kết luận giám định số 274/MT-PC09 đề ngày 24/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu viên nén màu xanh, gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine; MDMA, khối lượng: 0,6758gam.

Cáo trạng số 420/CT-VKS-TA ngày 15/11/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Tiến T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Nguyễn Văn Đ, Trần Quốc L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo T có ông nội là người có công với Nhà nước.

Kiểm sát viên đề nghị:

Xử phạt bị cáo Phạm Tiến T mức án từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc L mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư ghi vụ số 274/PC09 là vật chứng trong vụ án.

Đề nghị trả cho bị cáo Điệp 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen ghi chữ HUAWEI kèm sim số: 0384.948.548 và sim 0985.042.074; trả cho bị cáo Thành 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 màu đen kèm sim số: 0879.998.678.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Quốc L, Phạm Tiến T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố, các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 20/5/2021, tại quán Karaoke Suối Reo, địa chỉ 151/1, khu phố 1A, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L mua của Phạm Tiến T 03 viên thuốc lắc với số tiền 900.000 đồng. Sau đó, L lấy 01 viên ma túy ra sử dụng, còn lại 02 viên ma túy để lại trên bàn thì lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 274/MT-PC09 đề ngày 24/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu viên nén màu xanh, gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine; MDMA, khối lượng: 0,6758gam. Số ma túy này các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L mua của Phạm Tiến T để sử dụng, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phạm Tiến T thỏa thuận mua bán ma túy với Nguyễn Văn Đ, khi giao ma túy thì Trần Quốc L hỏi giá và trả tiền mua ma túy cho T, nên hành vi của Phạm Tiến T đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Phạm Tiến T về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là phù hợp với hành vi các bị cáo đã thực hiện.

Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây ra sự nghiện ngập và mầm mống của các tệ nạn xã hội khác nhưng vì lợi ích của việc mua bán chất ma túy và muốn có ma túy sử dụng nên các bị cáo đã cố ý phạm tội, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi các bị cáo đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo.

Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo L và bị cáo Đ cùng nhau hùn tiền mua ma túy sử dụng nên phải chịu trách nhiệm ngang nhau đối với hành vi đã thực hiện. Bị cáo T phải chịu trách nhiệm đối với hành vi bán ma túy cho L và Đ.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Thành có ông nội là người có công với Nhà nước nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

[5] Đối với người thanh niên tên Gồ, là người đưa ma túy cho T để T bán cho Đ và L vào ngày 20/5/2021 tại khu vực trước cổng quán Karaoke Suối Reo. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh người thanh niên tên Gồ nhưng không có thông tin đầy đủ về nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở để xác minh xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động màu xanh đen ghi chữ HUAWEI kèm sim số: 0384.948.548 và sim 0985.042.074 thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu đen kèm sim số: 0879.998.678 thu giữ của Phạm Tiến T. Các bị cáo không sử dụng các điện thoại trên để liên hệ mua bán ma túy nên trả lại cho các bị cáo.

Đối với số ma túy đựng trong 01 bì thư niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương ký hiệu số 274/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật chứng trong vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 58 Bộ luật Hình sự, áp dụng đối với Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L;

- Điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự, áp dụng đối với Phạm Tiến T;

- Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Phạm Tiến T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2021.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2021.

Xử phạt bị cáo Phạm Tiến T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 274/PC09 (là mẫu vật ma túy hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Bên ngoài có chữ ký của người chứng kiến Nguyễn Văn Đ và Trần Quốc L, cán bộ nhận mẫu Trương Minh H và dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Trả lại cho bị cáo Phạm Tiến T 01 (một) điện thoại Iphone 11 màu đen kèm sim số: 0879.998.678 (không kiểm tra được Imei).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) điện thoại HUAWEI kèm sim số: 0384.948.548 và sim 0985.042.074 (không kiểm tra được Imei).

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/11/2021).

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Quốc L, Phạm Tiến T mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 395/2021/HS-ST

Số hiệu:395/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về