TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2022/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Tiến N, sinh ngày 12/01/1977 tại tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: số nhà x, phố P, tổ y, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Nguyễn Hồng L và bà Phạm Thị H, ông L được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba; bà Phạm Thị H Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
Quyết định số 319/QĐ–UBND ngày 06/03/2009 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh–Giáo dục–Lao động xã hội trong thời hạn 12 tháng, lý do: Nghiện ma túy.
Quyết định số 731/QĐ–UBND ngày 23/03/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh–Giáo dục–Lao động xã hội trong thời hạn 12 tháng, lý do: Nghiện ma túy.
Quyết định số 1164/QĐ –CT ngày 24/05/2012 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh– Giáo dục–Lao động xã hội trong thời hạn 12 tháng, lý do: Nghiện ma túy.
Bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 18/12/2021 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn T sinh năm 1989, trú tại: thôn Lục Tiên, xã Vũ Tiến, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Hồng L, sinh năm 1947, trú tại số nhà x, phố P, tổ y, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Có mặt.
- Người chứng kiến:
1. Ông Mai Ngọc C, sinh năm 1958; Nơi cư trú: Số nhà z, đường T, tổ c, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.
2. Anh Trần Ngọc A, sinh năm 1975, trú tại số nhà k, tổ s, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 05 phút, ngày 15/12/2021 tại số nhà x, phố P, tổ y, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình, tổ Công tác công an thành phố Thái Bình bắt quả tang Nguyễn Tiến N có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Văn T. Trước sự chứng kiến của ông Mai Ngọc C và anh Trần Ngọc A. T giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon màu trắng, T khai là ma túy đá vừa mua của N với giá 500.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra người N lấy từ trong túi quần bên phải của N ra giao nộp cho tổ công tác 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 01 túi nilon trong suốt có mép cài, bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt. N khai nhận đây là túi ma túy đá N cất giấu để bán và 01 tờ tiền 500.000 đồng là do N vừa bán 01 túi ma túy đá cho Trần Văn T mà có, tổ Công tác đã niêm phong tờ tiền và túi ma túy đá vào trong 02 phong bì dán kín trên mép dán niêm phong đều có chữ ký của N, T và người chứng kiến. Kiểm tra người N và T tổ Công tác không phát hiện thu giữ gì, tổ Công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Tiến N tại số nhà x, phố P, tổ y, phường B, thành phố T: thu trong hộp loa trên giường của Nam 01 cân điện tử màu trắng - đỏ có chữ Manlloro, 10 vỏ túi nilon trong suốt đều có mép cài và 05 túi nilon trong suốt đều có mép cài, bên trong đều có chứa chất dạng tinh thể trong suốt (niêm phong, ký hiệu M1); thu dưới đệm trong phòng ngủ 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể trong suốt (niêm phong, ký hiệu M2). Nguyễn Tiến N khai nhận toàn bộ số ma túy trên tàng trữ mục đích để bán kiếm lời.
Tại bản kết luận giám định số 438/KLGĐMT-PC09 ngày 16/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất dạng tinh thể trong suốt, trong phong bì niêm phong ghi “vật chứng quản lý của Trần Văn T” gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0702 gam (Không phẩy không nghìn bảy trăm linh hai gam). Chất dạng tinh thể trong suốt trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng quản lý của Nguyễn Tiến N” gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4020 gam (Không phẩy bốn nghìn không trăm hai mươi gam). Chất dạng tinh thể trong suốt ghi “M1; Vật chứng quản lý khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Tiến N” gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,7089 gam (Không phẩy bảy nghìn không trăm tám mươi chín gam). Chất dạng tinh thể trong suốt, trong phong bì niêm phong ghi “M2; Vật chứng quản lý khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Tiến N” gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0195 gam (Một phẩy không nghìn một trăm chín mươi lăm gam).
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như trên. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và của những người chứng kiến là ông Mai Ngọc C và anh Trần Ngọc A đều thể hiện như lời khai của bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 38/CT – VKSTPTB ngày 08/03/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Tiến N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2021. Đề nghị phạt bị cáo từ 05 đến 07 triệu đồng để sung ngân sách nhà nước. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng đã thu của Nam. Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử, 10 vỏ túi ni lông đã thu của Nam. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi của mình mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng : Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người chứng kiến và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình, lập hồi 14 giờ 15 phút ngày 15/12/2021; Biên bản khám xét chỗ ở của Nguyễn Tiến N; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 19 giờ 05 phút và 19 giờ 50 phút ngày 15/12/2021; Bản kết luận giám định số 438/KLGĐMT - PC09, ngày 16/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và các tài liệu chứn cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 14 giờ 05 phút ngày 15/12/2021, tại số nhà x, phố P, tổ y, phường B, thành phố T, Nguyễn Tiến N có hành vi bán trái phép cho Trần Văn T 01 gói ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,0702 gam lấy 500.000 đồng bị Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra Nguyễn Tiến N còn tàng trữ trái phép tại chỗ ở của mình 2,1304 gam ma túy, loại Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời.
Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời vẫn thực hiện với lỗi cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tuy đã hết thời gian bị coi là không bị xử lý hành chính nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo thành khẩn khai báo, có bố, mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định như Kiểm sát viên đề nghị mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo bán ma túy với mục đích kiếm lời nên cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Nguyễn Tiến N và Trần Văn T được niêm phong trong 04 phong bì hoàn trả mẫu vật. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng của Nam do phạm tội mà có; 01 cân điện tử đã hỏng, 10 vỏ túi ni lông không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[6] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai là mua của một người nam giới tại khu vực ngõ n, đường Q, thành phố T nhưng không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.
[7] Đối với Trần Văn T là người đã mua ma túy của N mục đích để sử dụng cho bản thân. Do lượng ma túy T mua chưa đủ để khởi tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bản thân T chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 27/12/2021 Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng đối với T là đúng quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Úy ban Thường vụ Quốc hội.
[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/12/2021.
Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
[3]. Về xử lý vật chứng:
[3.1]. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Nguyễn Tiến N và Trần Văn T được niêm phong trong 04 phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 438/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình;
[3.2]. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng đã thu của Nguyễn Tiến N.
[3.3]. Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử đã hỏng và 10 vỏ túi ni lông đã thu của Nguyễn Tiến N.
(Vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 11/3/2022).
[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 31-3-2022, anh Trần Văn T có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST
Số hiệu: | 39/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về