Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2021/TLST - HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Lầu A T (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 2000 tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản C, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lầu Vả L, sinh năm 1979 và bà Ly Thị K, sinh năm 1976; Vợ: Sùng Thị S, sinh năm 2000; Con: Có 01 con, sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/7/2021, tạm giam từ ngày 26/7/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lai Châu cho đến nay (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 17/7/2021, tại bản C2, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu, Công an huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu bắt quả tang Lầu A T đang có hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Vật chứng thu giữ của T là 03 bánh Heroine được gói ngoài bằng nhiều lớp nilon khác nhau có tổng khối lượng là 1.053 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lầu A T khai nhận: Khoảng tháng 5 năm 2021, Lầu A T và Lầu A C, sinh năm 1988, trú tại bản XC, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đến nhà người phụ nữ tên M (kết quả điều tra xác minh là Hờ Thị C, tên gọi khác là M) nhà ở bản N, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu chơi. Tại nhà M, M đặt vấn đề mua Heroine với T và C, sau đó hai bên cho nhau số điện thoại để liên lạc trao đổi, thống nhất xong C và T đi xe về nhà. Về đến nhà, T đi tìm mua Heroine nhưng không tìm được. Đến cuối tháng 6/2021, C nói với T đã mua được Heroine, số lượng cụ thể chưa nói cho T biết. Ngày 15/7/2021, M điện thoại cho T hỏi mua được Heroine chưa, T bảo M liên lạc với C hỏi xem.

Ngày 16/7/2021, C tới nhà T nói cho T biết C đã mua được 03 bánh Heroine và cả hai thống nhất giấu 03 bánh Heroine vào yên xe mô tô BKS 27B2-21759 của T và thống nhất ngày 17/7/2021 mang đi bán cho M. C nói với T nếu bán được Heroine sẽ cho T 50.000.000 đồng và đưa trước cho T 5.000.000 đồng, T đồng ý. Sau đó, T gọi điện cho M và thỏa thuận giá cả là 120.000.000 đồng/01 bánh Heroine. Sáng ngày 17/7/2021, T và Lầu A C đi xe của T bên trong yên xe có 03 bánh Heroine đi từ huyện Đ, tỉnh Điện Biên sang huyện T, tỉnh Lai Châu để bán ma túy cho M, T là người điều khiển xe, còn C ngồi phía sau. Đến hồi 11 giờ 15 phút ngày 17/7/2021, cả hai đi đến khu vực bản C2, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu thì bị Tổ công tác Công an huyện Than Uyên phát hiện bắt quả tang đối với Lầu A T, còn đối tượng C lợi dụng sơ hở của tổ công tác đã chạy thoát.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lầu A T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Về các vấn đề khác của vụ án:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lầu A T khai nhận: 03 bánh Heroine bị Công an thu giữ là của Lầu A C đưa cho T mang đi bán; 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO mang BKS 27B2-21759 kèm 01 đăng ký xe là của T; 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel là của T dùng để giao dịch mua bán Heroine; số tiền 4.800.000 đồng là do Lầu A C trả cho T dùng để chi tiêu trên đường vận chuyển ma túy đem đi bán.

Theo lời khai của Lầu A T, nguồn gốc Heroine bị thu giữ là do Lầu A C, sinh năm 1988, trú tại bản XC, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thuê T vận chuyển ma túy để mang đi bán. Kết quả xác minh, C hiện không có mặt ở địa phương, ngoài lời khai duy nhất của T không có chứng cứ tài liệu khác chứng minh nên chưa có căn cứ để điều tra, làm rõ, xử lý C trong cùng vụ án. Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý C khi có căn cứ.

Theo lời khai của Lầu A T, T và Lầu A C mang Heroine bán cho M. Cơ quan điều tra đã xác định được nhà ở và triệu tập M (kết quả điều tra xác minh là Hờ Thị C, tên gọi khác là M), sinh năm 1982, trú tại bản N, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu để lấy lời khai và đối chất với T, M không thừa nhận việc quen biết T và đặt mua ma túy với T. Ngoài lời khai duy nhất của T không có chứng cứ tài liệu khác chứng minh nên không đủ căn cứ để tiến hành điều tra, làm rõ hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của M trong vụ án này.

Tại kết luận giám định số 633/GĐ-KTHS ngày 22/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Vật chứng thu giữ của Lầu A T gửi đến giám định có tổng khối lượng là 1.053 gam là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKSLC - P1 ngày 16/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Lầu A T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lầu A T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lầu A T tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021. Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 1.049,2 gam Heroine còn lại sau giám định; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO gắn BKS 27B2- 21759 kèm 01 đăng ký xe mang tên Lầu A T và 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 4.800.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Lầu A T 01 chứng minh nhân dân mang tên Lầu A T.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lầu A T và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định nêu trên.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên, Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 17/7/2021, tại bản C2, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu, Lầu A T đang thực hiện hành vi vận chuyển 1.053 gam Heroine về bản N, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu nhằm mục đích bán kiếm lời thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo ý thức được việc bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì tư lợi cá nhân nên vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo; quá trình tạm giam bị cáo đã cung cấp nhiều thông tin về một số đối tượng có biểu hiện nghi vấn hoạt động mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy từ địa bàn huyện MN, tỉnh Điện Biên vào địa bàn tỉnh Lai Châu để tiêu thụ, trong đó Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lai Châu đã phá thành công 01 chuyên án ma túy thu giữ khối lượng ma túy đặc biệt lớn nên có Công văn số 92/CV-PC04 ngày 09 tháng 3 năm 2022 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi xét xử; bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng, hơn nữa để có căn cứ tiếp tục điều tra Thào A C- theo lời khai của bị cáo T, C là chú họ, là người thuê và cùng bị cáo vận chuyển Heroine mang bán. Do đó, căn cứ điểm c mục 3 tiểu mục 3.3 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội không thời hạn để giáo dục bị cáo cũng như công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Do đó quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đúng quy định của pháp luật.

Không chấp nhận đề nghị của người bào chữa về việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt vì: Bị cáo mua bán ma túy với khối lượng đặc biệt lớn (1.053gam Heroine), do đó việc áp dụng mức hình phạt tù chung thân đối với bị cáo là đã xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo điều kiện kinh tế còn khó khăn, nghề nghiệp làm ruộng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: 1.049,2 gam Heroine còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO gắn BKS 27B2-21759 xe cũ đã qua sử dụng, số máy VDEJQ154FMJ1333573, số khung RPEXCJCPELA333573, dung tích xi lanh 127 kèm 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Lầu A T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mà Cơ quan điều tra đã thu giữ. Kết quả điều tra xác định là của bị cáo, bị cáo dùng làm phương tiện, công cụ phạm tội nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

01 chứng minh nhân dân mang tên Lầu A T là giấy tờ tùy thân nên cần trả lại cho bị cáo T theo Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với số tiền 4.800.000 đồng, là số tiền dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và thuộc hộ cận nghèo nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[7] Kiến nghị: Đề nghị Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tiếp tục xác minh làm rõ các đối tượng có liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo nhằm tránh lọt người, lọt tội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Lầu A T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lầu A T tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 1.049,2 gam Heroine còn lại sau giám định.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO gắn BKS 27B2- 21759 xe cũ đã qua sử dụng, số máy VDEJQ154FMJ1333573, số khung RPEXCJCPELA333573, dung tích xi lanh 127 kèm 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Lầu A T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel số IMEI 355633047241038, máy cũ đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 4.800.000 đồng (Bốn triệu tám trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo Lầu A T: 01 chứng minh nhân dân mang tên Lầu A T.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/11/2021 giữa Công an tỉnh Lai Châu và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu).

4. Về án phí:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lầu A T.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về