Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 216/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 216/2021/HS-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 209/2021/TLST-HS ngày 15/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2021/QĐXXST- HS ngày 05/8/2021 đối với bị cáo:

Hạng T, sinh năm 1977 tại xã T, huyện B, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Hạng A P và bà Thào Thị D; bị cáo có chồng là Giàng A H, sinh năm 1980 và 05 con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 29/11/2012, Hạng T bị TAND huyện Mộc Châu xử phạt Hạng T 4 năm 6 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 27/3/2013 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2016.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2021 đến nay. Có mặt.

Người phiên dịch: Ông Cứ A S, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10h00’ ngày 06/5/2021, tổ công tác Công an xã C làm nhiệm vụ tại bản X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra đối với Hạng T đang đi bộ trên đường dân sinh. Qua kiểm tra, phát hiện T đang cất giấu trong chiếc túi vải màu đen đang đeo trên người 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 22 gói nilon màu xanh chứa cục chất bột màu trắng, nghi là Heroine và 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 47 viên nén màu hồng, nghi là Methamphetamine. Hạng T khai nhận đó là gói Heroine và 47 viên Hồng phiến của T mang về bán kiếm lời. Căn cứ hành vi vi phạm, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và bàn giao Hạng T cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.

Ngày 06/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh khối lượng 22 gói nilon màu xanh đựng cục chất bột màu trắng được 2,12 gam; lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu từ A1 đến A22, 47 viên nén màu hồng có khối lượng 4,80 gam, lấy 5 viên có khối lượng 0,51 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu A23.

Tại Kết luận giám định số 957 ngày 10/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu từ A1 đến A22 đều là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng của các mẫu gửi giám định là 2,12 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu A23 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,51 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,12 gam, loại Heroine và 4,80 gam loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, Hạng T khai nhận: Khoảng 06h30’ ngày 06/5/2021, Hạng T mang theo số tiền 400.000đ và đi bộ đến khu vực cầu sắt cũ thuộc bản X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua ma túy mang về trả công cho người làm thuê. Trên đường dân sinh bản X, T gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 47 viên hồng phiến và 01 gói Heroine gói bằng nilon màu xanh. Sau khi mua được ma túy, T chia số Heroine thành 22 gói nhỏ, gói bằng nilon màu xanh và cho số ma túy vào chiếc lọ nhựa màu trắng T nhặt trên đường rồi cất trong chiếc túi vải đang đeo trên người. Trên đường đi về A gặp tổ công tác Công an xã C kiểm tra, phát hiện, thu giữ .

Tại bản Cáo trạng số 148/CT- VKS ngày 14 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Hạng T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Hạng T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Hạng T từ 07 năm đến 08 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hạng T, bắt ngày 6/5/2021: Bên trong đựng 42 viên = 4,29 gam, 01 lọ nhựa màu trắng các mảnh nilon màu xanh, phong bì ban đầu; 01 (một) phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy của Hạng T 06/5/2021 và 01 (một) chiếc túi vải màu đen đã qua sử dụng cũ.

- Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hạng T.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ ] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ ] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Hạng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an xã C giữ có nguồn gốc của bị cáo mua được của một người phụ nữ không quen biết với giá 400.000đ vào ngày 06/5/2021, mục đích để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Căn cứ quy định tại Điều 4, Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng các chất ma túy Heroin (2,12 gam) và Methamphetamine (4,8 gam) thu giữ của Hạng T là 2,12 gam + 4,8 gam = 6,92 gam.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Hạng T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng do hám lời nên ngày 06/5/2021 bị cáo Hạng T đã có hành vi tàng trữ 2,12 gam Heroin và 4,8 gam Methamphetamine nhằm mục đích để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo Hạng T không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo: Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án theo bản án số 38/2012/HSST ngày 29/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt Hạng T 04 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo thuộc hộ nghèo, sống chung với gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[ ] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hạng T, bắt ngày 6/5/2021: Bên trong đựng 42 viên = 4,29 gam, 01 lọ nhựa màu trắng các mảnh nilon màu xanh, phong bì ban đầu; 01 (một) phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy của Hạng T 06/5/2021 và 01 (một) chiếc túi vải màu đen đã qua sử dụng cũ. Xét thấy, đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[ ] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Hạng T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[ ] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về thời hạn tạm giam: Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, do đó, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các l trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hạng T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hạng T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 06/5/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hạng T, bắt ngày 6/5/2021: Bên trong đựng 42 viên = 4,29 gam, 01 lọ nhựa màu trắng các mảnh nilon màu xanh, phong bì ban đầu; 01 (một) phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy của Hạng T 06/5/2021 và 01 (một) chiếc túi vải màu đen đã qua sử dụng cũ.

3. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hạng T.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 216/2021/HS-ST

Số hiệu:216/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về