Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 19/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 19/02/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 10/2020/TLST-HS ngày 17/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 05/02/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1989 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố T, phường C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ dân phố Đ, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến T (đã chết) và bà Phạm Thị H; chưa có chồng; có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt, tạm giữ ngày 07/10/2019, tạm giam từ ngày 13/10/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Xuân L, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 07/10/2019, Nguyễn Xuân L và Nguyễn Văn K là những đối tượng nghiện ma túy rủ nhau góp tiền đi mua ma túy để cùng sử dụng, L nói với K:“Tao có một trăm đây, mày góp thêm đi lấy hàng về chơi”, K nói:“Tao cũng còn một trăm” rồi lấy ra 100.000 đồng đưa cho L. Sau đó, L và K đi bộ đến nhà Nguyễn Thị Thanh N để mua ma túy. Đến nơi, K đứng chờ bên ngoài còn L vào trong nhà gặp N, L nói:“Chị để cho em một cái hai trăm”, hiểu ý L muốn mua 200.000 đồng ma túy, N nói:“Đưa tiền đây” thì L lấy ra 200.000 đồng đưa cho N. N cầm tiền rồi đi vào trong nhà lấy 01 gói ma túy bọc bằng giấy bạc màu vàng mang ra định đưa cho L thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đi đến kiểm tra, N liền ném gói ma túy đang cầm trên tay xuống nền nhà nhưng bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án gồm:

- Thu giữ tại chỗ: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục do Nguyễn Thị Thanh N ném xuống nền nhà được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; số tiền 200.000 đồng thu giữ trên tay N và số tiền 890.000 đồng thu giữ trong túi quần của N;

- Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Thanh N thu giữ: 02 túi nilon mầu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục ở túi áo khoác trong tủ đựng quần áo niêm phong ký hiệu KX01; 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục trong tủ đựng quần áo niêm phong ký hiệu KX02; 01 túi nilon mầu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục thu dưới nền nhà niêm phong ký hiệu KX03; 01 túi nilon mầu trắng một đầu bị xé rách bên trong chứa chất màu trắng thu dưới nền nhà niêm phong ký hiệu KX07; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo; số tiền 2.300.000 đồng; 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA loại xe Lead, BKS: 90B2-xxxxx; 01 căn cước công dân và 01 đăng ký xe môtô đều mang tên Nguyễn Thị Thanh N.

Tại bản Kết luận giám định số 172/PC09-MT ngày 11/10/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:

“- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,048 gam, loại Heroine.

- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu KX01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 17,796 gam, loại Heroine.

- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu KX02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,036 gam, loại Heroine.

- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu KX03 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,182 gam, loại Heroine.

- 01 túi nilon màu trắng bị xé rách một phần trong mẫu KX07 gửi giám định không bám dính ma túy loại: Heroine.”.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Xuân L bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ quả tang ngày 07/10/2019 và cất giấu trái phép chất ma túy tại nơi ở của mình với mục đích để bán cho người khác kiếm lời.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định ngoài lần bán trái phép chất ma túy bị bắt giữ quả tang, Nguyễn Thị Thanh N còn bán trái phép chất ma túy nhiều lần khác cho Nguyễn Xuân L tại nơi ở của mình để thu lợi bất chính, cụ thể:

- Khoảng 16 giờ ngày 04/10/2019, Nguyễn Thị Thanh N đã bán trái phép cho Nguyễn Xuân L 01 gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng.

- Khoảng 21 giờ ngày 06/10/2019, Nguyễn Thị Thanh N đã bán trái phép cho Nguyễn Xuân L 01 gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng.

Đối với số ma túy mua được của Nguyễn Thị Thanh N các lần nêu trên, Nguyễn Xuân L và Nguyễn Văn K đều đã mang vào khu đất trống ven đường sử dụng hết.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKS-PL ngày 16/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Thị Thanh N về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b và i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh N, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, i khoản 2 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Thị Thanh N từ 10 năm đến 11 năm tù.

- Phạt tiền bị cáo từ 05 triệu đến 10 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 07/10/2019, tại khu vực tổ dân phố Đ, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Thị Thanh N bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang khi đang thực hiện hành vi bán trái phép 0,048 gam chất ma túy loại Heroine cho Nguyễn Xuân L là đối tượng nghiện ma túy lấy 200.000 đồng. Khám xét nơi ở của Nguyễn Thị Thanh N, Cơ quan điều tra đã thu giữ thêm 21,014 gam chất ma túy loại Heroine được N cất giấu mục đích để bán cho người khác kiếm lời. Mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định ngoài lần bán trái phép chất ma túy bị bắt giữ quả tang, Nguyễn Thị Thanh N còn 02 lần khác bán trái phép chất ma túy loại Heroine cho Nguyễn Xuân L vào các ngày 04/10/2019 và 06/10/2019 lấy 400.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc các trường hợp“phạm tội 02 lần trở lên” Heroine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” theo quy định tại các điểm b và i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt do chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn là phụ nữ đơn thân phải một mình nuôi con nhỏ nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động mua, bán, tàng trữ chất ma túy; gây mất trật tự, trị an cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác; bị cáo phạm tội nhiều lần, với số lượng ma túy bị thu giữ lớn. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với mục đích vụ lợi, nhằm kiếm lời bất chính. Do vậy việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo bằng hình thức phạt tiền là cần thiết, nhằm răn đe, giáo dục chung.

[6] Đối với người đàn ông bị cáo khai khoảng 30 tuổi, làm xe ôm tại khu vực gầm cầu vượt nút giao Liêm Tuyền thuộc xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là người đã bán ma túy cho bị cáo để mang về cất giấu, bán lại cho người khác kiếm lời. Do Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Đối với hành vi của Nguyễn Xuân L và Nguyễn Văn K ngày 07/10/2019 đã cùng nhau góp tiền mục đích mua ma túy để sử dụng, mặc dù Lương đã đưa tiền cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh N nhưng chưa nhận được ma túy đã bị bắt giữ nên hành vi đó chưa đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Cơ quan điều tra không xử lý về mặt hình sự đối với L và K là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Về vật chứng và xử lý vật chứng của vụ án:

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Lead, BKS: 90B2-xxxxx;

02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và Vivo; 01 thẻ căn cước công dân, 01 đăng ký xe máy đều mang tên Nguyễn Thị Thanh N và số tiền 3.190.000 đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra đã xác định là tài sản, giấy tờ hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ trên tay bị cáo khi bị cáo bị bắt giữ quả tang là do phạm tội mà có nên sẽ tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ nên sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào các điểm b và i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh N phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2019.

- Hình phạt bổ sung: Căn cứ vào Điều 35, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Thanh N 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh N 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe LEAD, màu sơn vàng (xe đã cũ), biển kiểm soát: 90B2-xxxxx, số máy: JF45E0599378, số khung: 4512FY565923; 02 (hai) chiếc điện thoại di động gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh (đã cũ), số IMEI1: 869035040623114, số IMEI2: 869035040623106 và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màn hình cảm ứng, vỏ màu vàng (đã cũ), số IMEI1: 866581039934056, số IMEI2: 866581039934049; 01(một) căn cước công dân số: 03518900xxxx và 01 (một) chứng nhận đăng ký xe máy số: xxxx42 đều mang tên Nguyễn Thị Thanh N và số tiền 3.190.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu, tiêu hủy 05 (năm) phong bì đã niêm phong mặt trước có ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01, KX01, KX02, KX03, KX07”, số 172/PC09-MT có chữ ký, đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 17/01/2020 và Ủy nhiệm chi số 06 lập ngày 20/01/2020.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Thị Thanh N nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 19/2020/HS-ST

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về