TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Quàng Văn T, sinh 20/8/1988; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Quàng Văn Y, sinh 1955 và bà Quàng Thị H, sinh 1955; vợ Lò Thị V và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh 2017; tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự (ngày 30/9/2019 bị Toà án nhân dân huyện M áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng); Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2021 đến nay; có mặt tại phiên toà.
- Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn T: Bà Cầm Kim Loan là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.
- Người làm chứng: Lò Văn K, sinh 2002; Nơi cư trú: bản Mạ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 29/12/2020 Lò Văn K gặp Quàng Văn T, K hỏi “anh ơi có thuốc không em vật quá” T nói “anh có một ít mới đi mua về năm mươi nghìn mày có ăn thì cùng ăn với anh”, K đồng ý, Tiên lấy ra 01 gói nilon màu xanh, dùng tay bẻ đưa cho K ½ gói và nhận 50.000VNĐ của K, K sử dụng một phần còn lại cất giữ đến hồi 21 giờ 20 phút, ngày 29/12/2020 Lò Văn K bán cho Quàng Văn C tại bản M, xã C, huyện M thì bị Tổ công tác Công an xã C phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng và số tiền 100.000VNĐ. Theo kêt luân giám định số 147, ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KC là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,08 gam; loại Heroine”. Ngày 22/3/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã khởi tố bị can đối với Quàng Văn T nhưng Tiên không có mặt tại nơi cư trú, ngày 26/5/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ra Quyết định số 01/ĐCSHS-KTMT, quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Quàng Văn T đồng thời thực hiện truy nã đối với Quàng Văn T; ngày 06/8/2021 Quàng Văn T bị bắt, thực hiện đối chất giữa Quàng Văn T và Lò Văn K xác định Quàng Văn T đã bán trái phép chất ma tuý cho Lò Văn Khoan 01 lần với số tiền 50.000VNĐ. Nguồn gốc ma tuý T có được do mua của một người không biết tên, địa chỉ, T đã sử dụng một phần còn lại cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.
Ngày 29/6/2021 Toà án nhân dân huyện M đã xét xử và tuyên phạt Lò Văn K 26 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử lý vật chứng theo vụ án.
Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho T nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của T.
Bản cáo trạng số 82/CT-VKS-ML ngày 09/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội với mục đích mua ma túy cất giữ để sử dụng và bán để kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Quàng Văn T từ 26 đến 32 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu nộp ngân sách số tiền 50.000VNĐ; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo T tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật hạn chế, tuổi còn trẻ; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát.
Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: ngày 29/12/2020 bị cáo Quàng Văn T cất giữ trái phép 01 gói Heroine, đến khoảng 14 giờ cùng ngày bị cáo đã bán trái phép gói Heroine đó cho Lò Văn Khoan được số tiền 50.000VNĐ, K tiếp tục bán lại cho Quàng Văn C thì bị Tổ công tác Công an xã C phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 147, ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KC là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng ma tuý ma túy thu giữ là 0,08 gam; loại Heroine”. Như vậy, Quàng Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi bán trái phép chất ma tuý (Heroine) cho Khoan để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở điều trị ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giữ mà còn bán trái phép 0,08 gam chất ma túy cho người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, tuổi bị cáo còn trẻ, khối lượng ma tuý không lớn, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, nhưng có tiền sự là đối tượng bị truy nã, sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), chính quyền địa phương xác định bị cáo không chấp hành quy định của địa phương, không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.
[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 07/8/2021 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
[8] Đối với Lò Văn Khoan là người mua bán trái phép 0,08 gam Heroine của Quàng Văn T và vật chứng thu giữ được đã xử lý theo bản án số 74/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Toà án nhân dân huyện M (đã có hiệu lực thi hành) nên không xử lý theo vụ án.
[9] Vật chứng của vụ án: số tiền 50.000VNĐ bị cáo đã bán bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn K có được là do phạm tội mà có, bị cáo đã chi tiêu hết nên cần phải truy thu, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt: Bị cáo Quàng Văn T 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/8/2021); không phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Truy thu và tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 50.000VNĐ (Năm mươi nghìn đồng) của Quàng Văn T.
4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tiên.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/11/2021).
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 14/2021/HS-ST
Số hiệu: | 14/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về