Bản án về mua bán trái phép chất ma túy số 190/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 190/2020/HSST NGÀY 03/11/2020 VỀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại trô sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 190/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 346/2020/QĐXXST-HS ngày 22/10/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T sinh năm 1996;

Hộ khẩu thường trú: 74 NK, phường VM, quận DĐ, thành phố Hà Nội.

Chỗ ở: 74 NK, phường VM, quận DĐ, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp : Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Đức L và bà Lê Thị Ánh T; Tiền án: Không, Tiền sự: 01 tiền sự: Năm 2014 Công an phường VM, quận DĐ xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị cáo bắt quả tang ngày 29/02/2020; Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số I – Công an thành phố Hà Nội; Số giam 1843V1/24 (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Ánh T sinh năm 1963;

Hiện trú tại: 74 NK, phường VM, quận DĐ, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 35 phút ngày 29/02/2020, tại khu vực trước nhà số 11 ngõ 9 Nguyễn Tri Phương - P. Điện Biên - Ba Đình - Hà Nội, tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy – công an quận Tây Hồ kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức T có hành vi Mua bán: 01 túi nilon bên trong chứa thảo mộc khô (thu giữ trên người), 12 túi nilon màu bạc chứa thảo mộc khô (thu trên xe máy do T điều khiển). T khai nhận là ma túy cần sa, mang đi bán để kiếm lời. Ngoài ra, còn thu giữ của T: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode BKS 29E2 - 322.45; 01 điện thoại Iphone vỏ màu trắng, mặt kính bị rạn vỡ, 01 ví giả da màu nâu, 4.000.000 đ (bốn triệu đồng), 02 túi nilon màu đỏ.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại địa chỉ: 74 NK - P. VM - DĐ - Hà Nội, Cơ quan CSĐT - CAQ. Tây Hồ phát hiện và thu giữ: 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng, 01 túi nilon màu đỏ đều chứa thảo mộc khô, 01 cân điện tử màu đen, 01 cân đĩa màu xanh, 01 bộ dụng cụ thủy tinh, 200 túi nilon kích thước 20x30 cm chưa qua sử dụng, 100 túi nilon kích thước 25x15 chưa qua sử dụng, 135.000.000 đ (một trăm ba lăm triệu đồng).

Kết luận giám định số 1767/KLGĐ-PC09, ngày 06 tháng 03 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội:

- Tang vật thu trên người Nguyễn Đức T: Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilon là cần sa, khối lượng: 11,88 gam.

- Tang vật thu trên xe: Thảo mộc khô bên trong 12 túi nilon đều là cần sa, tổng khối lượng 3050,20 gam.

- Tang vật thu giữ khi khám xét:

+ Thảo mộc khô bên trong 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng và 01 túi nilon màu đỏ đều là cần sa, tổng khối lượng: 11354,2 gam.

+ 01 bộ dụng cụ thủy tinh, 01 cân điện tử màu đen, 01 cân đĩa màu xanh đều có dính cần sa.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức T khai nhận như sau:

Ngày 26/02/2020 T lên mạng xã hội Facebook với mục đích tìm mua ma túy cần sa số lượng lớn về để bán kiếm lời. Sau đó, T đã tìm được một số điện thoại (T không nhớ số điện thoại cụ thể), hỏi mua 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) tiền ma túy loại cần sa và người bán yêu cầu T chuyển tiền trước. T đi ra ngân hàng Techcombank trên phố Tôn Đức Thắng - Hà Nội rồi chuyển 100.000.000 đồng vào số tài khoản tên Nguyễn Phú Q (T không nhớ thông tin cụ thể).

Khoảng 12 giờ ngày 28/02/2020, T nhận kiện hàng từ một nhân viên chuyển phát nhanh, bên trong kiện hành có nhiều túi nilon màu bạc chứa thảo mộc khô là ma túy loại cần sa. Ngoài ra, trước đó vào ngày 24.02.2020, T có mua 5kg ma túy cần sa với giá 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) cùng với hình thức như trên, chuyển tiền qua tài khoản tên Nguyễn Phú Qu. T không biết tên tuổi, địa chỉ và không nhớ số điện thoại người giao hàng. Số cần sa đã mua được, T đã sử dụng một ít, còn lại T cất giấu tại phòng ngủ tại nhà ở địa chỉ 74 NK - P. VM - DĐ - Hà Nội.

Khoảng 13 giờ 00 ngày 29/02/2020 có Tuấn “Mít” là bạn xã hội của T gọi điện hỏi mua 03 kg ma túy cần sa với giá 33.000.000 đồng (ba mươi ba triệu đồng) (T không nhớ số điện thoại cụ thể). T đồng ý và hẹn Tuấn ra khu vực đầu ngõ 9 đường Nguyễn Tri Phương - Hà Nội để giao cần sa. T đã lấy 12 túi nilon màu bạc chứa cần sa cho vào 02 túi nilon màu đỏ (mỗi túi nilon màu đỏ chứa 06 túi nilon màu bạc) treo ở móc khung xe máy BKS 29E2 - 322.45 và lấy 01 túi nilon màu trắng chứa cần sa mang theo người rồi điều khiển xe máy đi ra điểm hẹn. Khi đến khu vực trước cửa số nhà 11 ngõ 9 Nguyễn Tri Phương thì bị tổ công tác Đội CSĐTTP về Ma Túy - Công an quận Tây Hồ kiểm tra, do sợ hãi T bỏ chạy và làm rơi điện thoại. Tổ công tác đã phát hiện thu giữ T bộ số ma túy T chưa kịp bán và đưa T cùng tang vật về trụ sở để làm rõ sự việc. T khai: Ngày 29.02.2020 mới bán ma tuý lần đầu thì bị bắt giữ.

Ngoài ra, T khai còn cất giấu ma túy tại nhà, Cơ quan CSĐT - Công an quận Tây Hồ đã tiến hành khám xét khẩn cấp và thu giữ vật chứng như trên.

Lời khai của Nguyễn Đức T phù hợp lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, sơ đồ hiện trường cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với tài khoản mang tên Nguyễn Phú Qu: Cơ quan điều tra đã có công văn yêu cầu Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến giao dịch chuyển tiền của Nguyễn Đức T cho Nguyễn Phú Qu. Kết quả: Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam trả lời: Ngân hàng chưa đủ cơ sở dữ liệu để tra soát thông tin khách hàng. Vì vậy, cơ quan điều tra không xác định được con người cụ thể để có căn cứ xử lý.

Đối với chủ thuê bao số 0359938560, quá điều tra xác định là của Nguyễn Đức T. T khai không nhớ số thuê bao của người bán ma tuý tên “Tren Can” và người mua ma tuý tên “Tuấn mít”; Cơ quan điều tra đã có công văn số 1346/12.08.2020 gửi phòng an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao: đề nghị phòng PA05 phối hợp khôi phục T bộ dữ liệu tin nhắn, lịch sử cuộc gọi trong điện thoại thu giữ của T. Phòng PA05 đã tiến hành kiểm tra, phân tích và phục hồi dữ liệu từ thiết bị trên, kết quả trích xuất phục hồi: Đối với 01 điện thoại Iphone vỏ màu trắng kích thước 15x7,5cm, mặt kính rạn vỡ, máy bật không lên nguồn nên không thể truy cập vào để thực hiện các thao tác. Do đó, không thể trích xuất dữ liệu. Do vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với đối tượng mua và bán ma tuý cho T.

Đối với số tiền 139.000.000 đồng (một trăm ba lăm triệu đồng); 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode BKS 29E2 - 322.45 thu giữ của Nguyễn Đức T, xác định là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị Anh T (SN: 1963, HKTT: số 74 NK, DĐ, Hà Nội) là mẹ đẻ của Nguyễn Đức T. Do vậy, cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy và số tiền trên cho bà T.

Tại bản cáo trạng số 198/CT-VKS ngày 09/10/2020 của Viện Kiểm Sát nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Truy tố: Bị cáo Nguyễn Đức T về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”được quy định tại điểm k khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra, Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy bố bị cáo đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 07 năm tù đến 07 năm 06 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Đề nghị Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon là cần sa, khối lượng: 11,88 gam; 12 túi nilon đều là cần sa, tổng khối lượng 3050,20 gam; 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng và 01 túi nilon màu đỏ đều là cần sa, tổng khối lượng: 11354,2 gam là vật cấm lưu hành;

Đề nghị Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại Iphone vỏ màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức T không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Đức T tại cơ quan điều tra và phù hợp khớp với vật chứng đã thu giữ, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 36 phút ngày 29/02/2020, tại khu vực trước nhà số 11 ngõ 9 Nguyễn Tri Phương - P. Điện Biên - Ba Đình - Hà Nội, Nguyễn Đức T đã có hành vi mua bán trái phép 01 túi nilon là cần sa, khối lượng: 11,88 gam và 12 túi nilon là cần sa, khối lượng 3050,20 gam cho đối tượng nghiện tên Tuấn “mít”. Khi chưa kịp giao ma tuý cho đối tượng nghiện thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, khám xét nơi ở của T thu giữ: 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng và 01 túi nilon màu đỏ đều là cần sa, tổng khối lượng: 11354,2 gam. T khai số ma tuý thu giữ tại nhà nhằm mục đích để bán kiếm lời; Bị cáo Nguyễn Đức T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi có ý trực tiếp; Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về chất gây nghiện; Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm k khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

[3]. Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, và đúng quy định của pháp luật.

[4]. Ma túy là hiểm hóa lớn cho xã hội, là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác, mặc dù biết rõ tác hại của ma túy nhưng chỉ vì mục đích kiếm tiền đã vi phạm pháp luật do đó cần thiết xét xử bị cáo nghiêm minh với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức T không có tiền án; có 01 tiền sự đã hết thời hiệu, Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo khai báo thành khẩn, thực sự ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7]. Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhấn định mới có tác dụng giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên thấy cần miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[9]. Về xử lý vật chứng:

01 túi nilon là cần sa, khối lượng: 11,88 gam; 12 túi nilon đều là cần sa, tổng khối lượng 3050,20 gam; 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng và 01 túi nilon màu đỏ đều là cần sa, tổng khối lượng: 11354,2 gam là vật cấm lưu hành thấy cần tịch thu tiêu hủy;

01 bộ dụng cụ thủy tinh, 01 cân điện tử màu đen, 01 cân đĩa màu xanh đều có dính cần sa là công cụ phương tiện phạm tội thấy cần tịch thu tiêu hủy;

01 điện thoại Iphone vỏ màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo thấy cần tịch thu sung công quỹ nhà nước;

Số tiền 139.000.000 đồng và chiếc xe máy hiệu honda SH Mode BKS 29E2 - 322.45, Cơ quan điều tra – Công an quận Ba Đình xác định là của bà Lê Thị Ánh T và đã trao trả cho bà Lê Thị Ánh T, nên không xem xét.

Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Khoản 1 Mục I Danh mực án phí lệ phí Tòa án, Bị cáo phải chịu 200,000 dồng án phí hình sự sở thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017;

Vì các lẽ trên, ,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017;

Căn cứ vào Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ;Khoản 1 Mục I Danh mực án phí lệ phí Tòa án

XỬ phạt : Bị cáo Nguyễn Đức T : 07 (Bảy) năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”;

Thời hạn tù tính từ ngày 29/02/2020.

Miễn hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Đức T.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon là cần sa, khối lượng: 11,88 gam; 12 túi nilon đều là cần sa, tổng khối lượng 3050,20 gam; 40 túi nilon màu bạc, 02 túi nilon màu trắng và 01 túi nilon màu đỏ đều là cần sa, tổng khối lượng: 11354,2 gam ; 01 bộ dụng cụ thủy tinh, 01 cân điện tử màu đen, 01 cân đĩa màu xanh; 01 ví da mầu nâu.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại Iphone vỏ màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T;

(Hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, thanh phố Hà nội theo Biên bản giao vật chứng số 04 ngày 19/10/2020 ).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghàn) đồng án phý hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

452
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về mua bán trái phép chất ma túy số 190/2020/HSST

Số hiệu:190/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về