Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 139/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 139/2021/HS-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B. Toà án nhân dân huyện B đưa ra xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 140/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số : 130/2021/QĐXXST- HS ngày 07/12/2021 đối với bị cáo:

1. Phùng Viết T, sinh năm: 1983, Nơi cư trú: Đội 2, Thôn Ngọc Nhị, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Phùng Viết T, sinh năm: 1954; Con bà: Phùng Thị C, sinh năm: 1960; Vợ: Nguyễn Thị Hạnh N, sinh năm: 1982; Con có 2 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Bản án số 23/HSST ngày 25/8/2010 của Toà án nhân dân huyện T, Phú Thọ xử phạt Tuấn 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bị cáo ra trại ngày 08/02/2012. Bị cáo bị quả tang từ ngày 01/10/2021, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Phùng Viết T: Ông Phan Hoành S, trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 10 thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội.

( Ông S có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm: 1988;

Địa chỉ: Thôn Yên Thịnh, xã S, huyện B , thành phố Hà Nội.

2. Chị Nguyễn Thị Hạnh Nh, sinh năm: 1982;

Địa chỉ: Thôn Ngọc Nhị, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội ( Chị Nh có mặt, Anh Tr vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được thể hiện như sau:

Sáng ngày 01/10/2021, Phùng Viết T đang ở nhà tại thôn Ngọc Nhị, xã C thì thấy có cuộc gọi nhỡ của Nguyễn Văn Tr nên T đã gọi điện thoại lại cho Tr. Trọng hỏi T bán cho Tr 1.000.000đ tiền ma túy “đá” và bảo T san ra thành ba túi ma túy cho Tr thì T đồng ý. Trước đó khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, T đã được một người đàn ông tên Phùng Đức T cho 01 ống hút chứa ma tuý “đá” và T đã đem về nhà cất giấu. Sau khi thoả thuận xong với Tr, T đi vào phòng ngủ lấy một bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 ống hút chứa ma túy “đá” rồi san ma túy “đá” ở trong ống hút ra cho vào 03 túi nilong màu trắng có kích thước khoảng (1x1,5) cm. Tuần dùng băng dính màu đen cuốn xung quanh mỗi túi ma tuý và cất vào trong bao thuốc lá Thăng Long. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Tr gọi điện cho T hẹn gặp nhau ở khu vực cây đa thuộc thôn Chí Phú, xã S để giao dịch mua bán ma túy. Khoảng 30 phút sau, T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS 30Z7- 4717 mang theo 03 túi ma tuý đã chuẩn bị trước đến điểm hẹn. Đến nơi, T dựng xe máy rồi lấy bao thuốc lá Thăng Long, bên trong chứa 03 túi ma túy “đá” để xuống bụi cỏ gần vị trí T đứng. Một lúc sau, T thấy Tr đi bộ từ trong ngõ thuộc thôn Chí Phú đi ra chỗ T. Khi Trọng gần đến vị trí T đứng thì tổ công tác Công an xã S yêu cầu kiểm tra và bắt quả tang hành vi của T và Tr.

Ngày 01/10/2021, CQĐT đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phùng Viết T tại thôn Ngọc Nhị, xã , huyện B đã phát hiện, thu giữ: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma tuý gồm 01 bình thủy có nắp đậy bằng nhựa màu trắng, trên nắp đậy có lắp 01 coóng thủy tinh (bên trong coóng thủy tinh bám dính chất nghi là ma tuý) và 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu đen - trắng ở hộc để đồ bên phải phía đầu giường ngủ trong phòng của Phùng Viết (Ký hiệu mẫu M2).

Tại bản kết luận giám định số: 7299/KLGĐ-PC09 ngày 09/10/2021của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Mẫu M1: Tinh thể màu trắng bên trong 03 (ba) túi nilong trong suốt, bên ngoài được cuốn băng dính màu đen, được đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, có tổng khối lượng: 0,829gam, đều là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M2: Bên trong coóng thủy tinh có bám dính ma túy loại Methamphetamine.” Tại CQĐT, Nguyễn Văn Tr khai nhận ngày 28/9/2021, Tr đã mua của T 01 gói ma tuý “đá” với giá 500.000,đ ở gần nhà. Tuy nhiên qua đối chất, T không thừa nhận đã bán ma tuý cho T ngày 28/9/2021.

Ngoài ra, T và Tr còn khai nhận ngày 29/9/2021, Tr nhờ T mua ma tuý nhưng do không có ma tuý nên T đã gọi điện đến SĐT 0962.598.586 cho Phùng Đức Th và Th đã mang ma túy đến nhà T để bán cho Tr với giá 500.000đ. CQĐT đã tiến hành cho T và Tr nhận dạng Phùng Đức Th, kết quả: T và Tr đều nhận dạng được Th. Tuy nhiên qua đối chất, Th không thừa nhận đã bán ma tuý cho Tr ngày 29/9/2021.

Đối với Nguyễn Văn Tr là người nghiện ma túy, đã có hành vi mua ma túy của T về để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Quá trình thử nước tiểu Tr dương tính với chất ma túy nên Công an huyện B đã ra Quyết định xử phạt vi hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với Phùng Đức Th là người T khai cho T ma tuý ngày 01/10/2021 và bán ma tuý cho Tr vào ngày 29/9/2021. Qua đối chất, Th không thừa nhận đã cho T ma tuý và bán ma tuý cho Tr, việc cung cấp, mua bán ma tuý không có ai khác làm chứng. Thao khai nhận SĐT 0962.598.586 là SĐT đăng ký chính chủ tên Th nhưng vào khoảng đầu tháng 9/2021, Th đã làm mất điện thoại cùng SĐT trên và không biết ai đang sử dụng. Ngày 28/9/2021 và 01/10/2021, Th không gọi điện liện lạc với T, không gặp gỡ T hay đến nhà T bán ma tuý. Do đó, CQĐT không đủ cơ sở để xử lý đối với Phùng Đức Th trong vụ án này.

Về vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong tang vật mang tên Phùng Viết T do Phòng kỹ thuật hình sự (PC09)- Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau giám định;

- 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy (gồm 01 bình thủy tinh, 01 coóng thủy tinh, 01 đoạn ống hút bằng nhựa) được bọc trong 01 túi nilong dán kín, có dán giấy niêm phong;

- Số tiền 1.000.000đ thu giữ của Nguyễn Văn Tr.

- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0982.072.983 thu giữ của T;

- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia lắp sim số 0374.631.197 thu giữ của Tr;

- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, không lắp gương chiếu hậu, số khung: RLHJC4308AY015296, số máy: JC43E-0816507, BKS: 30Z7-4717, đã qua sử dụng, tạm giữ của Phùng Viết T. Qua xác minh, xác định: Chủ đăng ký của chiếc xe máy trên là Nguyễn Văn K. Anh K đã cho, tặng chị Nguyễn Thị Hạnh Nh chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại. Sau đó, chị Nh đã sử dụng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi làm hàng ngày. Kết quả tra cứu, chiếc xe máy trên không phải tang vật của vụ án nào. Ngày 01/10/2021, Phùng Viết T đã mượn xe máy trên của chị Nh để đi bán ma túy cho Tr, tuy nhiên khi mượn xe T không nói rõ với chị Nh là mượn xe để đi đâu, làm gì.

Viện KSND huyện B đã ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục THADS huyện B để bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số: 143/2021/CT- VKS ngày 30 tháng 11 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện B để xét xử bị cáo Phùng Viết T về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ” theo quy định tại khoản 1, Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu luận tội, giữ nguyên nội dung như cáo trạng truy tố. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phùng Viết T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 251; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Phùng Viết T từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong tang vật mang tên Phùng Viết T do Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an TP Hà Nội hoàn trả sau giám định. 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy ( 01 bình thủy tinh, 01 đoạn ống hút, 01 coong thủy tinh).

Tịch thu phát mại tài sản sung công quỹ Nhà nước:

01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia lắp sim số 0374.631.197 thu giữ của Tr.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) thu giữ của Nguyễn Văn Tr.

Tuyên trả cho chị Nguyễn Thị Hạnh Nh: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, không lắp gương chiếu hậu, số khung: RLHJC4308AY015296, số máy: JC43E-0816507, BKS: 30Z7-4717. 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0982.072.983 thu giữ của T (Xác định là của chị Nhung).

Căn cứ vào các chứng cứ và tại liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa ;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện B thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phùng Viết T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người liên quan, biên bản thu giữ tang vật CQĐT và các tài liệu chứng cứ thu thập được đã có trong hồ sơ vụ án. Như vậy HĐXX có đủ cơ sở xác định vào ngày 01/10/2021, tại khu vực thôn Chí Phú, xã S, huyện B, Phùng Viết T đã có hành vi bán trái phép chất 0,829 gam ma tuý loại Methamphetamine cho Nguyễn Văn Tr với giá 1.000.000 đồng để kiếm lời thì bị bắt quả tang. Do vậy HĐXX đã có đầy đủ căn cứ khẳng định hành vi bị cáo Phùng Viết T thực hiện ngày 01/10/2021 đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đúng với nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về việc trao đổi chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Ma túy không những hủy hoại sức khỏe con người mà còn là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác trong xã hội. Do đó cần xử lý nghiêm đối với bị cáo.

[3]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu Bản án số 23/HSST ngày 25/8/2010 của Toà án nhân dân huyện T, Phú Thọ xử phạt T 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bị cáo ra trại ngày 08/02/2012.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, Bà ngoại của bị cáo là người có công với cách mạng được tặng huy chương kháng chiến. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét tính chất của vụ án và nhân thân của bị cáo Phùng Viết T thì cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] .Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5, Điều 251 BLHS 2015 còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Xét thấy bị cáo T không có công ăn việc làm ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hộ cận nghèo. Do vậy miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Đối với Nguyễn Văn Tr là người nghiện ma túy, đã có hành vi mua ma túy của T về để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Quá trình thử nước tiểu Trọng dương tính với chất ma túy nên Công an huyện B đã ra Quyết định xử phạt vi hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ.

Đối với Phùng Đức Th là người T khai cho T ma tuý ngày 01/10/2021 và bán ma tuý cho Tr vào ngày 29/9/2021. Qua đối chất, Th không thừa nhận đã cho T ma tuý và bán ma tuý cho Tr, việc cung cấp, mua bán ma tuý không có ai khác làm chứng. Th khai nhận SĐT 0962.598.586 là SĐT đăng ký chính chủ tên T nhưng vào khoảng đầu tháng 9/2021, Th đã làm mất điện thoại cùng SĐT trên và không biết ai đang sử dụng. Ngày 28/9/2021 và 01/10/2021, Th không gọi điện liện lạc với T, không gặp gỡ T hay đến nhà T bán ma tuý. Do đó, CQĐT không đề cập xử lý đối với Phùng Đức Th trong vụ án này là có căn cứ.

Về vật chứng vụ án: Cần Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong tang vật mang tên Phùng Viết T do Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an TP Hà Nội hoàn trả sau giám định. 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy ( 01 bình thủy tinh, 01 đoạn ống hút, 01 coong thủy tinh).

Tịch thu phát mãi sung công quỹ Nhà nước :

- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia lắp sim số 0374.631.197 thu giữ của Tr;

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) thu giữ của Nguyễn Văn Tr.

Xác định chiếc điện thoại DĐ nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0982.072.983 thu giữ của T là của chị Nguyễn Thị Hạnh Nh vợ của T mua cho con học trực tuyến vì vậy sẽ trả lại cho chị Nh.

Tuyên trả cho chị Nguyễn Thị Hạnh Nh: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, không lắp gương chiếu hậu, số khung: RLHJC4308AY015296, số máy: JC43E-0816507, BKS: 30Z7-4717. 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0982.072.983 thu giữ của T;

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Xử: Tuyên bố bị cáo Phùng Viết T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2/ Áp dụng: Khoản 1, Điều 251; Điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phùng Viết T 32( Ba mươi hai ) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo kể từ ngày 01/10/2021. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3/ Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong (có chứa chất ma túy thu giữ đã qua giám định) tại các mép dán có chữ ký tên của đối tượng Phùng Viết T.

01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy ( 01 bình thủy tinh, 01 đoạn ống hút, 01 coong thủy tinh).

Tịch thu phát mãi sung công quĩ Nhà nước:

01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia lắp sim số 0374.631.197 thu giữ của Tr;

Tịch thu sung công quĩ Nhà nước số tiền Nguyễn Văn Tr dùng vào việc mua bán ma túy là: 1000.000đ (Một triệu đồng). Cơ quan điều tra đã nộp vào tài khoản số: 3949.0.1052741 tại Kho bạc Nhà nước huyện B ngày 17/12/2021.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị Hạnh Nh : 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, không lắp gương chiếu hậu, số khung: RLHJC4308AY015296, số máy: JC43E-0816507, BKS: 30Z7-4717, đã qua sử dụng . 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0982.072.983 thu giữ của T;

( Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện B và Chi cục thi hành án huyện B ngày 17/12/2021) 4/ Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phùng Viết T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều Điều 331 BLTTHS năm 2015.

Bị cáo Phùng Viết T, chị Nguyễn Thị Hạnh Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Nguyễn Văn Tr có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 139/2021/HS-ST

Số hiệu:139/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về