Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 130/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 130/2021/HS-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 141/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2021/QĐXXST- HS ngày 02/8/2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Công Đ, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1998, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Tiểu khu 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa:10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: không; con ông Trần Đức T và bà Nguyễn Thị N; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2021 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Tiến T sinh ngày 26 tháng 02 năm 1996, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Tiểu khu 1, xã Chiềng S, huyện M, tỉnh Sơn La (nay là bản Hương Sơn, xã Chiềng S, huyện M, tỉnh Sơn La); nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Ngày 30/11/2018 Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2021đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Công Đ: Ông Ngô Xuân Nghiêm – Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La (vắng mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến T: Ông Đàm Mạnh Hùng - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Đình H, sinh năm 1992, trú tại: Tiểu khu Nhà Nghỉ, thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15h ngày 26/02/2021, tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại khu vực bản B, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La phát hiện Trần Công Đ đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 26B1-490.4x chở Nguyễn Tiến T. Qua kiểm tra phát hiện trên tay trái của T đang cầm 02 túi nilon bên trong đều chứa các viên nén hình tròn màu hồng (nghi là Methamphetamine) Đ, T khai nhận là hồng phiến mua về để bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tiến T và Trần Công Đ, thu giữ vật chứng: 02 túi nilon (01 túi màu xanh, 01 túi màu hồng) bên trong chứa tổng cộng 575 viên nén hình tròn màu hồng. Ngoài ra còn tạm giữ của Trần Công Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu xám đen, 01 xe máy biển kiểm soát 26B1-490.4x.

Ngày 26/02/2021, Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Sơn La thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 02 túi nilon chứa 575 viên nén có tổng khối lượng 59,41gam; trích lấy mỗi túi 05 viên tổng khối lượng 1,03gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu T2 và T4.

Tại Kết luận giám định số: 519 ngày 01/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T2, T4 đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định T2 = 0,49gam; T4 = 0,54gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 59,41gam; loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra các bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T khai nhận:

Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T đều là các đối tượng nghiện ma túy, có mối quan hệ quen biết nhau. Khoảng 11 giờ ngày 24/02/2021, Đ gặp T tại khu vực Tiểu khu 12, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Đ bảo T đi thuê nhà nghỉ để mua ma túy cùng nhau sử dụng, T nhất trí. Đ và T đi taxi đến nhà nghỉ Điểm Hẹn thuộc tiểu khu 14 thị trấn M thuê phòng nghỉ. Trên đường đi, Đ đưa cho T số tiền 3.700.000đ để chi tiêu ăn uống, mua ma túy và thuê nhà nghỉ.

Khoảng 23 giờ cùng ngày, Đ gọi điện thoại qua ứng dụng Zalo cho người đàn ông tên Dũng (tên zalo Bùi Tiến Dũng, Đ quen trong thời gian làm phụ xe khách Hải Dương – Yên Bái), Đ hỏi Dũng có mua hồng phiến không, D bảo nếu D mang hồng phiến xuống Hà Nội bán thì D sẽ mua với giá 9.000.0000đ/01 túi; D bảo sẽ cho số điện thoại của Đ cho một người đàn ông khác để trao đổi cụ thể (Đ không biết tên, địa chỉ và số điện thoại của người đó). Sau đó có một người đàn ông được D giới thiệu kết bạn zalo với Đ, hai người thống nhất khi nào Đ có ma túy sẽ thông báo và hẹn thời gian, địa điểm gặp nhau sau. Đ nói lại nội dung đã trao đổi với D cho T nghe và rủ T cùng đi tìm mua ma túy về bán cho D, T đồng ý. Khoảng 09 giờ sáng ngày 26/02/2021, Đ trả phòng nhà nghỉ và bảo T đưa tiền thanh toán hết 400.000đ. Sau đó Đ và T đến quán sửa xe của Lê Đình H tại tiểu khu Nhà Nghỉ, thị trấn Nông trường M để thuê xe máy BKS 26B1- 490.4x, quá trình thuê xe, Đ để lại chứng minh nhân dân và bảo T đưa 300.000đ để trả tiền thuê xe. Sau đó, Đ điều khiển xe chở T vào khu vực đường biên giới thuộc bản B, xã S tìm mua ma túy. Khi đến nơi, Đ và T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông (trước ngày 26/02/2021, Đ và T đã từng 02 lần mua ma túy của người phụ nữ trên). T trao đổi hỏi mua được của người phụ nữ đó 03 túi hồng phiến với giá 3.300.000đ, T lấy 3.000.000đ trong số tiền Đ đưa ngày 24/02/2021 và 200.000đ là tiền riêng của T góp chung vào trả cho người phụ nữ, số tiền còn lại 100.000đ T bảo chiều sẽ quay lại trả sau.

Sau khi mua được ma túy, Đ và T dồn số ma túy mua được T 02 túi. Tiếp đó T cầm túi ma túy trên tay, Đ điều khiển xe máy chở T ra thị trấn M để mang xuống Hà Nội bán cho Dũng, khi đi đến khu vực bản B, xã S, huyện M thì Đ và T bị tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La phối hợp với các lực lượng chức năng bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 79/CTr-VKS-P1 ngày 13/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Các bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T khai toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra. Các bị cáo không khai thêm nội dung gì khác liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Đình H trình bày: Chiếc xe máy biển kiểm soát 26B1- 490.4x là xe của anh. Ngày 26/02/2021 Trần Công Đ thuê chiếc xe trên của anh. Việc Đ thuê xe để đi mua ma túy anh H không biết. Đề nghị Hội đồng xét xử trả cho anh chiếc xe máy.

Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và Điều luật áp dụng đối với 2 bị cáo và đề nghị: Tuyên bố các bị cáo Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Công Đ từ 17 năm đến 18 năm tù.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T từ 17 năm đến 18 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng đề nghị: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 58,38 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định và 02 que thử ma túy.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động.

- Trả anh Lê Đình H 01 chiếc xe máy HONDA AIRBLADE biển kiểm soát 26B1-490.4x.

Quan điểm của Luật sư Ngô Xuân Nghiêm theo luận cứ ngày 16/8/2021 bào chữa cho bị cáo Trần Công Đ: Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau khi bị bắt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã T khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu. Luật sư đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Quan điểm của Luật sư Đàm Mạnh Hùng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến T: Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau khi bị bắt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã T khẩn khai báo, bị cáo phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo. Luật sư đề nghị: Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xem xét xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt là 15 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Các bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T nhận tội và nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Ngày 26/02/2021, Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T bị bắt quả tang khi đang có hành vi cất giữ 59,41gam Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời. Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 00 ngày 26/02/2021 đối với Nguyễn Tiến T và Trần Công Đ tại bản Bó Sập, xã Lóng Sập, huyện M, tỉnh Sơn La cùng với vật chứng của vụ án bị thu giữ.

- Kết luận giám định số: 519 ngày 01/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T2, T4 đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định T2 = 0,49gam; T4 = 0,54gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 59,41gam; loại Methamphetamine.” - Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Từ các chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, được quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.

Do đó, Cáo trạng số 79/CT - VKS – P1 ngày 13/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo:

Bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T là người có đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng đã cố ý thực hiện việc mua bán 59,41gam Methamphetamine nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, xâm pham chinh sach đôc quyên quan ly cua Nha nươc v ề chất ma túy; tội phạm vê ma tuy còn là nguyên nhân lam phat sinh cac tôi pham khac ; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa chung.

Ngoài hành vi phạm tội bị phát hiện bắt quả tang, quá trình điều tra Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T khai nhận, trước đó đã mua ma túy của người phụ nữ dân tộc Mông ở khu vực bản Bó Sập, xã Lóng Sập huyện M 02 lần nhưng không nhớ thời gian, khối lượng và số tiền mua. Số ma túy mua được, Đ và T đã sử dụng hết nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T về hành vi trên. Vì vậy Nguyễn Công Đ và Nguyễn Tiến T phải chịu trách nhiệm đối với 59,41gam Methamphetamine thu giữ trong vụ án.

Trong vụ án này vai trò của từng bị cáo được xác định như sau:

Bị cáo Trần Công Đ là người khởi xướng, trực tiếp liên hệ tìm người mua ma túy sau đó rủ rê, lôi kéo Nguyễn Tiến T cùng tham gia tìm mua ma túy để bán cho Dũng kiếm lời do đó bị cáo Đ giữ vai trò chính trong vụ án.

Đối với Nguyễn Tiến T là người tiếp nhận ý chí của Trần Công Đ cùng với Đ đi tìm mua ma túy, góp tiền chung với Đ để mua ma túy và trực tiếp trao đổi mua bán ma túy với người phụ nữ dân tộc Mông Lào nên phạm tội với vai trò đồng phạm, được áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự khi xem xét quyết định hình phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

+ Bị cáo Trần Công Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Bị cáo Nguyễn Tiến T có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngày 30/11/2018 Tòa án nhân dân T phố Sơn La xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội mới đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Do đó bị cáo Nguyễn Tiến T phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo T khẩn khai báo ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tai khoan 5 Điêu 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy các bị cáo không có tài sản, thu nhập, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung nên không áp dụng.

[6] Đối với những đối tượng liên quan đến vụ án:

Về nguồn gốc 575 viên Methamphetamine có khối lượng 59,41gam Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T khai nhận số ma túy trên mua của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực bản Bó Sập, xã Lóng Sập, huyện M, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của các bị cáo, cơ quan điều tra không có tài liệu chứng cứ nào khác để xác minh điều tra.

Đối với người đàn ông tên Dũng và người đã kết bạn zalo với Đ để đặt mua ma túy, Đ khai không biết tên, địa chỉ và số điện thoại của Dũng và người đàn ông đó do vậy Cơ quan điều tra không có tài liệu chứng cứ nào khác để xác minh điều tra.

Đối với Nguyễn Thị Loan là chủ nhà nghỉ Điểm Hẹn nơi Đ và T thuê phòng bàn bạc đi tìm mua ma túy về bán, và anh Lê Đình H trú tại tiểu khu Nhà Nghỉ, thị trấn Nông Trường M là người cho Đ thuê xe máy. Quá trình điều tra xác định Loan, H không biết và không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy Loan, H không liên quan đến vụ án.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản:

Đối với 58,38gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, là loại chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy cùng với 02 que thử ma túy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S vỏ màu xám đen thu giữ của Trần Công Đ xét đây là công cụ phương tiện bị cáo sử dụng để liên lạc trong quá trình mua bán ma túy nên cần tịch thu nộp Ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA biển kiểm soát 26B1-490.4x xét đây là tài sản hợp pháp của anh Lê Đình H. Đ, T thuê xe để sử dụng đi mua ma túy anh H không biết, nên cần chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trả lại chiếc xe máy cho anh H.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo: Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Công Đ 17(mười bảy) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/02/2021.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/02/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng, tài sản: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì vật chứng còn nguyên niêm phong, bên trong có tổng khối lượng 58,38 gam Methamphetamine; vỏ giấy niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu hồng, 01 túi nilon màu xanh.

+ Hai que thử ma túy đối với Trần Công Đ, Nguyễn Tiến T được đựng trong phong bì vật chứng còn nguyên niêm phong.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01(một) điện thoại nhãn hiệu IPHONE 6S vỏ màu xám đen, điện thoại đã qua sử dụng, điện thoại có 01 sim viettel số thuê bao: 0868131765 và số IMEI 356648082641495.

- Trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Đình H: 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLADE, màu vàng đen, có biển kiểm soát 26B1-490.4x, số khung 446400; số máy: 1339020, kèm 01 chìa khóa, 01 gương lùn, xe đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo Trần Công Đ và Nguyễn Tiến T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/8/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 130/2021/HS-ST

Số hiệu:130/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về