Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 123/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN B

BẢN ÁN 123/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 121/2022/TLST-HS ngày 30/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2022/QĐXXST-HS ngày 13/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Ph; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1980 tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B; nơi cư trú: Bản V, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông: Lò Văn T, sinh năm 1961; con bà: Lò Thị Ng, sinh năm 1962; bị cáo sống như vợ chồng với Lò Thị T, sinh năm 1986 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện B xử phạt 07 năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 38/2006/HSST ngày 09/01/2006. Năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ch, tỉnh Điện B xử phạt 10 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 30/2012/HSST ngày 14/02/2012, ngày 28/01/2019 bị cáo trở về địa phương sinh sống, hiện đã được xóa án tích; chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/7/2022 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lò Thị Khánh H, là trợ giúp pháp lý nhà nước của Trung tâm trợ giúp pháp lý, có mặt bào chữa cho bị cáo.

3. Người có nghĩa vụ liên quan: Lò Văn Th, sinh năm 1994 Trú tại: Bản Xuân Tr, xã Búng L, huyện Mường T, tỉnh Điện B, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ, ngày 21/7/2022, Lò Văn Ph đi nhờ xe máy của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ từ bản V, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G đến nhà Lò Văn Th, sinh năm 1994, trú tại bản Xuân Tr, xã Búng L, huyện Mường T, tỉnh Điện B để mua ma túy. Khi đến nơi, Ph chủ động hỏi Th: “Anh có ma túy tổng hợp không, bán cho 300.000 đồng”, Th nói: “Đưa tiền đây”. Ph lấy trong người ra đưa cho Th 300.000 đồng, Th đưa cho Phúc 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 10 viên Methamphetamine. Việc trao đổi mua bán ma túy chỉ có Ph và Th biết với nhau. Sau khi mua được ma túy, Th đi về nhà và cho 10 viên Methamphetamine vào trong 01 lọ nhựa màu trắng và cất giấu vào trung túi quần đang mặc nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai thì đến 07 giờ 20 phút ngày 22/7/2022 bị tổ công tác Công an huyện Tuần G phát hiện bắt quả tang thu giữ 10 viên Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 16 giờ 30 phút ngày 22/7/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G đã xác định: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn P có khối lượng 0,95 gam, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam, còn lại 0,87 gam Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 16 giờ 50 phút ngày 22/7/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã xác định: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn Th có khối lượng 0,07 gam, trích mẫu gửi giám định toàn bộ.

Tại Bản kết luận giám định số: 1073/KL-KTHS ngày 01/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định thu giữ của Lò Văn Ph là chất ma túy, loại Methamphetamine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 1074/KL-KTHS ngày 01/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện B đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định thu giữ của Lò Văn Th là chất ma túy, loại Methamphetamine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi mua Methamphetamine về để sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số: 102/CT-VKS-TG ngày 29/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn P từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,87 gam Methamphetamine; 01 lọ nhựa màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi của mình, bị cáo nhờ người bào chữa, bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm bào chữa của người bào chữa: Nhất trí với bản Cáo trạng và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhất trí với việc đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo. Tuy nhiên người bào chữa đề nghị HĐXX xem xét thêm các tình tiết về nhân thân, bị cáo không được đi học, hoàn cảnh gia đình và hoàn cảnh phạm tội của bị cáo để áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo không bổ sung gì vào lời bào chữa.

Người bào chữa và đại diện Viện kiểm sát không tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 07 giờ 20 phút, ngày 22/7/2022, tại khu vực Bản V, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,95 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt ng ười phạm tội quả tang (BL 01-02); biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám đị nh và niêm phong vật chứng (BL44 -46); kết luận giám định (BL101-102); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã cất giấu trái phép 0,95 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Văn Ph sinh ra và lớn lên tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B, sử dụng ma túy từ năm 2005. Bị cáo không có tiền án, tiền sự không có tình tiết tăng nặng nào. Về nhân thân đã từng 02 lần bị xét xử: Năm 2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện B xử phạt 07 năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 38/2006/HSST ngày 09/01/2006. Năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ch, tỉnh Điện B xử phạt 10 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 30/2012/HSST ngày 14/02/2012, ngày 28/01/2019 bị cáo trở về địa phương sinh sống, hiện đã được xóa án tích. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

HĐXX xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để lần nữa cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, xét đề nghị của đại diện VKS là có căn cứ nên cần được chấp nhận. Đề nghị của người bào chữa là có căn cứ nhưng mức hình phạt đề nghị thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị là chưa thật sự phù hợp, căn cứ vào nhân thân và khối lượng ma túy bị thu giữ, HĐXX xét xử sẽ áp dụng mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của Lò Văn Th vào ngày 21/7/2022. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra khám xét trên người và nơi ở của Th thu giữ được 01 viên Methamphetamine mua về để sử dụng và tiến hành lấy lời khai, đối chất giữa Th và Ph song không đủ căn cứ chứng minh được việc Th bán ma túy cho Phúc. Cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Lò Văn Th về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, HĐXX không xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo chỉ làm nông nghiệp, là người nghiện ma túy nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo, là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành nên cần được tịch thu tiêu hủy; 01 lọ nhựa màu trắng xét thấy không có giá trị sử dụng cần được tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,87 gam Methamphetamine; 01 lọ nhựa màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Về tội danh: Bị cáo Lò Văn Ph phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn Ph: 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 22/7/2022.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,87 gam Methamphetamine;

01 lọ nhựa màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng đã được Công an huyện Tuần G bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần G hồi 08 giờ 30 phút, ngày 06 tháng 9 năm 2022)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 27/9/2022./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 123/2022/HS-ST

Số hiệu:123/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về