Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 28/02/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/HSST ngày 31 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân T, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1975 tại thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: phố Độc Lập, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1943 (Đã chết) và bà Mai Thị T, sinh năm 1945 (Đã chết); Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có bốn anh chị em; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án: 03

+ Ngày 26/4/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình tuyên phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với 15 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam” của bản án số 07 ngày 30/9/1998 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, buộc Nguyễn Xuân T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 51 tháng tù. Đến ngày 26/6/2002 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương (chưa chấp hành xong các quyết định khác của bản án).

+ Ngày 21/7/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình tuyên phạt 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 21/4/2016 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương (chưa chấp hành xong các quyết định khác của bản án).

+ Ngày 25/4/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình tuyên phạt 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến ngày 07/4/2021 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương (đã nộp tiền án phí, nhưng chưa được xóa án tích).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2004 bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo quyết định số 32 ngày 23/4/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo tạm giữ từ ngày 23/08/2022. Có mặt.

- Người chứng kiến:

+ Ông Bùi Văn H, sinh năm 1972; Địa chỉ: phố Mường Vôi, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992; Địa chỉ: phố Thống Nhất, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 phút, ngày 23/8/2022 Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình phối hợp với Công an thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại đoạn đường thuộc phố độc Lập, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn thì phát hiện Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, cư trú tại phố Độc Lập, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn đang đi bộ trên đường có biểu hiện nghi vấn hoạt động tội phạm về ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với T thì phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Xuân T đang cầm trong lòng bàn tay trái 02 (hai) gói giấy bạc, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là chất ma túy). Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng, đưa Nguyễn Xuân T về trụ sở Công an huyện Lạc Sơn để làm rõ.

Khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Xuân T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã thu giữ: 01 (một) gói giấy bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (nghi là ma túy); 02 (hai) mảnh giấy bạc kích thước khác nhau; 01 (một) chiếc dao lam có ghi dòng chữ DORCO. Các vật chứng trên đều thu giữ tại vị trí trên mặt bàn trong phòng ngủ của Nguyễn Xuân T.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người khác để thu lời bất chính và khai nhận về nguồn gốc số ma túy do cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang và khám xét khẩn cấp nơi ở của T ngày 23/8/2022 cụ thể như sau: Do bản thân không có nghề nghiệp ổn định, nên khoảng 08 giờ, ngày 23/8/2022 Nguyễn Xuân T đi xe buýt từ nhà đến khu vực Ngã ba xưa, xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình để tìm mua ma túy. Trong quá trình tìm mua ma túy T gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ đặc điểm nhận dạng có biểu hiện nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được ma túy của người này với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), sau đó đón xe buýt đi về nhà. Về đến nhà T chia số ma túy vừa mua được thành nhiều gói nhỏ cất giấu ở trong nhà và cầm theo người nhằm mục đích bán cho người khác để thu lời bất chính nhưng chưa kịp bán cho ai thì bị phát hiện và bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 231/KL-KTHS ngày 31/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

Chất bột dạng cục màu trắng trong 02 gói ký hiệu G1, G2 trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, trú tại phố Độc Lập - Vụ B - Lạc Sơn - Hòa Bình” gửi giám định có tổng khối lượng 0,08g (Không phẩy không tám gam), là ma túy, loại Heroine.

Chất bột dạng cục màu trắng trong 02 gói ký hiệu G3, G4 trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Xuân T gồm: 01 (một) gói giấy bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (nghi là ma túy) và 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (nghi là ma túy)” giám định có tổng khối lượng 0,17g (Không phẩy mười bảy gam), là ma túy, loại Heroine.

Trước Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Nguyễn Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong nguyên vẹn mẫu giám định ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hòa Bình, một mặt có ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975 - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 23/8/2022, tại TT Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình, chữ ký của cán bộ giám định và chữ ký của cán bộ Công an huyện Lạc Sơn - Hòa Bình.

- 01 (một) phong bì niêm phong của Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, gồm: 01 (một) dao lam và 02 (hai) mảnh giấy bạc kích thước khác nhau”. Mép dán có dấu niêm phong của Công an thị trấn Vụ B - Lạc Sơn - Hòa Bình và dấu niêm phong của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, chữ ký của Nguyễn Xuân T và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Các vật chứng trên Viện KSND huyện Lạc Sơn chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn quản lý chờ xử lý.

Trong quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Xuân T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo không khai báo trung thực, bị cáo cho rằng mình không có hành vi mua bán chất ma túy mà bị cáo chỉ mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. HĐXX phải đấu tranh, dùng mọi biện pháp nghiệp vụ thì bị cáo mới khai nhận hành vi mua bán ma túy của mình.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 30/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát trình bày bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Xuân T từ 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Xuân T tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Theo tài liệu ban đầu do T cung cấp thẻ căn cước công dân và sổ hộ khẩu gia đình, bị can có tên là Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, trú tại phố Độc Lập, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn là con ông Nguyễn Văn Kh (đã chết) và bà Mai Thị T (đã chết). Tuy nhiên quá trình xác minh tại trích lục tiền án, tiền sự số 3975/2022/PV06 ngày 21/9/2022 của Phòng hồ sơ nghiệp vụ Công an tỉnh Hòa Bình thể hiện tại các Bản án số 07/ST ngày 30/9/1998 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, Bản án số 38/HSST ngày 26/4/1999, Bản án số 59/2006/HSST ngày 21/7/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, Bản án số 34/2017/HSST ngày 25/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình lại có tên là Nguyễn Văn T, sinh năm 1974.

Tại kết luận giám định số 350/KL-KTHS ngày 09/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Vân tay trên danh bản, chỉ bản số 129 mang tên Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, trú tại phố Độc Lập, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình do Công an huyện Lạc Sơn lập ngày 31/8/2022 với vân tay trên danh bản, chỉ bản phô tô số 05696 có dấu sao y bản chính của Phòng hồ sơ nghiệp vụ (PV06) Công an tỉnh Hòa Bình mang tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1974, trú tại phố Độc Lập, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, do Công an thành phố Hòa Bình lập ngày 12/12/2016 đồng nhất với nhau. Do đó có đủ căn cứ để khẳng định Nguyễn Xuân T và Nguyễn Văn T là cùng một người.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Xuân T có trong hồ sơ vụ án phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 23/8/2022; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định số 231/KL-KTHS ngày 31/08/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình; lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 19 giờ 30 phút, ngày 23/8/2022 tại phố Độc Lập, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình phối hợp với Công an thị trấn Vụ B phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Xuân T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,08g (Không phẩy không tám gam) chất ma túy, loại Heroine. Khám xét chỗ ở của T, Cơ quan điều tra còn thu giữ được 0,17g (Không phẩy mười bảy gam) chất ma túy, loại Heroine;

01 (một) dao lam cũ đã qua sử dụng và 02 (hai) mảnh giấy bạc kích thước khác nhau. Tổng khối lượng ma túy mà Nguyễn Xuân T tàng trữ khi bị bắt quả tang và khi khám xét là 0,25g (Không phẩy hai mươi lăm gam) chất ma túy, loại Heroine. Mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy của T là nhằm bán cho người khác để thu lời bất chính. Nguyễn Xuân T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Nguyễn Xuân T phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân T đã mua bán 0,25 g (không phẩy hai mươi lăm) ma túy, loại Heroine với mục đích bán cho người nghiện để thu lời bất chính. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây nghiện làm hại cho sức khỏe, bị cáo nhận thức được những quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, nghiêm cấm việc mua bán trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[5]. Về nhân thân: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có 03 tiền án; Tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2004 bị cáo bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo quyết định số 32 ngày 23/4/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo”: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Cáo trạng đề nghị cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo khai báo không trung thực hành vi phạm tội của mình nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[7]. Về mức hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay tạo ra những “cái chết trắng” đáng báo động trong thời điểm hiện nay. Do đó, HĐXX xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo và để bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng….., do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, bị cáo không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Xuân T tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[10]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma túy thu giữ được của bị cáo Nguyễn Xuân T còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) dao lam và 02 (hai) mảnh giấy bạc kích thước khác nhau là công cụ bị cáo sử dụng để phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác [12]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[13]. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm q khoản 2 Điều 251; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 23/08/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

- Toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định, cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định được niêm phong. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình, chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

- 01 (một) dao lam và 02 (hai) mảnh giấy bạc được niêm phong trong phong bì một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở Nguyễn Xuân T, sinh năm 1975, gồm: 01 (một) dao lam và 02 (hai) mảnh giấy bạc kích thước khác nhau”. Mép dán có dấu niêm phong của Công an thị trấn Vụ B - Lạc Sơn - Hòa Bình và dấu niêm phong của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, chữ ký của Nguyễn Xuân T và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/01/2023 giữa Công an huyện Lạc Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn.

3. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về