Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Trung N, sinh năm 1987 tại thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

Nơi cư trú: Khóm H, phường Q, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12

Dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Bùi Xuân M, sinh năm 1952 (chết) và bà Phan Thị B, sinh năm 1951

Vợ: Nguyễn Thị Trúc H1, sinh năm 1994

Con: có 01 người tên Bùi Nguyễn Trung H2, sinh năm 2018

Tiền sự, tiền án: Không

Nhân thân:

- Ngày 27/5/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 18/11/2013 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 45/2013/HSST ngày 27/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành 02 Bản án là 03 năm 09 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2016. Thi hành xong án phí của Bản án số 45/2013/HSST của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc vào ngày 09/7/2013, thi hành xong án phí của Bản án số 233/2013/HSST của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 19/5/2014. Về trách nhiệm dân sự thi hành xong vào ngày 12/8/2015, đã được xóa án tích.

Tạm giữ: ngày 19/01/2021 đến ngày 28/01/2021 được tại ngoại.

Bắt tạm giam: ngày 17/10/2021

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp.

Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1- Anh Lại Quốc L, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp E, xã D, huyện V, tỉnh Đồng Tháp

2- Chị Lê Thị Phương T, sinh năm 1996 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp I, xã A, huyện V1, tỉnh Đồng Tháp

3- Anh Trần Chí C, sinh năm 1995 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khóm O, Phường U, thành phố C1, tỉnh Đồng Tháp

4- Anh Phạm Nguyễn Gia M, sinh năm 2002 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khóm Y, Phường U, thành phố C1, tỉnh Đồng Tháp

5- Anh Lê Thành N1, sinh năm 2001 (có mặt)

Nơi cư trú: Khóm P, phường Q, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 19/01/2021 lực lượng tuần tra tại dốc cầu G thuộc khóm H, phường Q, thành phố S phát hiện Lại Quốc L có dấu hiệu nghi ngờ nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ của L:

+ 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) được cất giấu trong túi áo khoác bên trái của L đang mặc.

Tiếp theo, vào khoảng 11 giờ cùng ngày lực lượng tuần tra phát hiện Phạm Nguyễn Gia M1 và Trần Chí C từ trong nhà của Bùi Trung N đi ra đường có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần của M1 đang mặc có cất giấu:

+ 01 bịch nylon dạng nắp kẹp, viền màu xanh, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) nên lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ.

Qua làm việc L và M1 khai nhận tinh thể màu trắng bị thu giữ là ma túy mua của Bùi Trung N để sử dụng, trên đường đi về thì bị bắt.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 19/01/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Trung N tại khóm H, phường Q, thành phố S, thu giữ của N gồm:

- 01 bình tự chế hiệu Sting, có nắp đậy màu đỏ, bên trên có gắn 01 ống thủy tinh được uốn cong một đầu, bên trong ống thủy tinh có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy), được niêm phong vào túi niêm phong có mã số NS3A 089053;

- 02 bịch nylon màu trắng có viền màu xanh, bên trong có chứa tinh thể màu trắng đã bị hòa tan do N nhả từ trong miệng ra, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS3A 089052;

- 03 ống thủy tinh được uốn cong một đầu dùng để sử dụng ma túy;

- 01 cây kéo;

- 01 hột quẹt gas;

- 07 bịch nylon màu trắng dạng nắp kẹp một đầu;

- 04 điện thoại di động, tất cả đã qua sử dụng, chua kiểm tra chất lượng bên trong gồm: 01 điện thoại di động hiệu iPhone màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen;

- Số tiền 1.400.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 56/KL-KTHS ngày 21/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

- Tinh thể rắn chứa trong 01 ống thủy tinh có một đầu hình cầu, có nắp nhựa màu đỏ được niêm phong trong túi niêm phong, mã số NS3A 089053 (thu giữ của Bùi Trung N) gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,143 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể rắn (sấy khô) chứa trong 02 bịch nylon dạng nắp kẹp một đầu có viền màu xanh, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS3A 089052 (thu giữ của Bùi Trung N) gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,731 gam, loại Methamphetamine.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Bùi Trung N là 0,874 gam, loại Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 58/KL-KTHS ngày 22/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

+ Tinh thể rắn chứa trong 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín được dán giấy niêm phong trong phong bì (thu giữ của Lại Quốc L) gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,042 gam, loại Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 72/KL-KTHS ngày 25/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

+ Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon màu trắng dạng nắp kẹp một đầu có viền màu xanh kẹp kín được niêm phong trong phong bì (thu giữ của Phạm Nguyễn Gia M1) gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,045 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Lại Quốc L, Lê Thị Phương T trình bày: L và T mua ma túy do N bán 04 lần cụ thể như sau:

- Lần 1: Vào khuya khoảng giữa tháng 12/2020, L cùng với vợ là Lê Thị Phương T ở nhà trọ R thuộc phường K, thành phố s điện thoại cho N đặt mua 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng, N đồng ý và hẹn đến cầu X, L kêu T ra điểm hẹn lấy ma túy, T đồng ý đi, lát sau T trở về và có mang theo bịch ma túy, T và L cùng sử dụng.

- Lần 2: Vào khoảng 22 giờ ngày 15/01/2021, L một mình đi đến nhà N, khi gần đến nơi L điện thoại cho N đặt mua 01 bịch ma túy với giá 250.000 đồng, N đồng ý và hẹn đến nhà N đưa cho L01 đoạn ống hút có chứa ma túy, L đưa cho N số tiền 250.000 đồng. L mang ma túy về sử dụng một mình.

- Lần 3: Vào khoảng 16 giờ ngày 17/01/2021, L cùng với vợ là T đi đến nhà N, T ở ngoài đường, còn L đi vào nhà N mua 01 bịch ma túy với giá 250.000 đồng, sau khi mua ma túy xong, L về nhà cùng sử dụng với T.

- Lần 4: Vào khoảng 10 giờ ngày 19/01/2021, L đến nhà N mua 01 bịch ma túy với giá 250.000 đồng. Sau khi N giao ma túy, L nhận và cất giấu vào túi áo khoác đang mặc rồi điều khiển xe mô tô chạy về đến cầu G thì bị Công an bắt quả tang thu giữ ma túy.

Quá trình điều tra, Phạm Nguyễn Gia M1, Trần Chí C khai nhận: M1 cùng với C đi mua ma túy do N bán 02 lần, cụ thể như sau:

- Lần 1: Khoảng 18 giờ ngày 18/01/2021, C điều khiển xe chở M1 đi từ thành phố C1 đến thành phố S. Khi đến nhà N, c đi vào nhà mua 300.000 đồng ma túy, còn M1 đợi ở bên ngoài, C vào trong nhà N được khoảng 05-10 phút thì đi ra mang theo bịch ma túy, C và M1 đi về thành phố C1 sử dụng.

- Lần 2: Vào khoảng 11 giờ ngày 19/01/2021, M1 và C đi đến nhà N, C đợi ở bên ngoài, còn M1 đi vào nhà N mua 200.000 đồng ma túy. Sau khi nhận được ma túy và trả tiền xong, M1 đi ra xe cho c chở về, nhưng khi đi được khoảng 07 mét thì bị lực lượng Công an bắt giữ cùng với bịch ma túy.

Khoảng 10 phút sau thì Công an đến nhà khám xét nên N bỏ 02 bịch ma túy vào miệng để phi tang nhưng bị Công an phát hiện thu giữ.

Quá trình điều tra xác định:

+ 01 điện thoại di động hiệu iPhone màu trắng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen;

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen.

Các điện thoại trên không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc đã trao trả cho N nhận xong.

+ Số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo (trong đó: có 450.000 đồng là tiền do bán ma túy cho L và M1 vào ngày 19/01/2021).

Đối với Bùi Trung N quá trình điều tra khai nhận: N là người nghiện ma túy, vào ngày 17/01/2021 có người bạn tên H3 (không rõ họ tên, địa chỉ) ở Thành phố Hồ Chí MI gửi ma túy cho N bằng đường xe khách, N nhận ma túy tại công viên thành phố S rồi mang về nhà cất giấu nhằm mục đích bán lại kiếm lời tiếp tục mua ma túy bán lại và để có ma túy sử dụng.

Qua đối chất, N chỉ thừa nhận bán ma túy 02 lần, cụ thể như sau:

- Lần 1: Vào ngày 19/01/2021 N đã bán ma túy cho L với số tiền 250.000 đồng.

- Lần 2: Vào ngày 19/01/2021 M1 và c có đến nhà N, C đợi ở ngoài xe, còn M1 đi vào nhà hỏi mua ma túy để sử dụng, N bán cho M1 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bị cáo mua ma túy của người thanh niên tên H3 (không rõ họ tên, địa chỉ) ở Thành phố Hồ Chí Minh 02 lần từ tháng 12/2020 đến khoảng ngày 17/01/2021 (lần 1: 500.000đ, lần 2: 1.000.000đ).

Sau đó bị cáo bán lại cho: L và T 04 lần theo như lời khai của L và T và bán cho M1 và c 02 lần theo như lời khai của M1 và C.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSTPSĐ ngày 21/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc đã truy tố bị cáo Bùi Trung N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc trong phần tranh luận đã giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị:

- Về hình phạt chính: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Trung N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với mức án 07 năm tù đến 08 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng và các vấn đề khác theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, xin giảm nhẹ hình phạt.

Người làm chứng không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng nên các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án là hợp pháp, đúng theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang được lập lúc 10 giờ 40 phút và 11 giờ 10 phút cùng ngày 19/01/2021 của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Tháp, phù hợp với biên bản khám xét được lập lúc 12 giờ 30 phút ngày 19/01/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, phù hợp với kết luận giám định số 56/KL-KTHS ngày 21/01/2021, số 58/KL-KTHS ngày 22/01/2021 và số 72/KL-KTHS ngày 25/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Qua đó đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ khoảng tháng 12/2020 đến ngày 19/01/2021 trên địa bàn thành phố s, Bùi Trung N nhiều lần bán ma túy cho: Lại Quốc L, Lê Thị Phương T, Phạm Nguyễn Gia M1, Trần Chí C để sử dụng.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 19/01/2021, sau khi Bùi Tmng N bán ma túy cho L và M1 thì bị lực lượng Công an tỉnh Đồng Tháp bắt giữ, khối lượng ma túy thu giữ của L là 0,042 gam, M1 là 0,045 gam, N là 0,874 gam, tổng khối lượng ma túy là 0,961 gam, loại Methamphetamine.

Theo Danh mục II ban hành kèm Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ thì Methamphetamine là một trong những chất ma túy, chất hướng thần độc hại, bị cấm sử dụng trái phép, ... các chất này chỉ được sử dụng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm, trong lĩnh vực y tế và phải theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền.

Bị cáo là người đã thành niên nên bị cáo biết và nhận thức được rằng ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần,... là chất độc hại. Nhà nước nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng trái phép ..., vì ma túy sẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe, ý chí phấn đấu của người sử dụng. Thế nhưng, do tư tưởng xấu, không biết rèn luyện phẩm chất đạo đức, nên bị cáo đã có hành vi nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện khác nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Thủ đoạn thực hiện tội phạm của bị cáo là hết sức táo bạo và liều lĩnh: địa điểm bị cáo bán ma túy là tại các khu vực trên địa bàn thành phố S là nơi có đông dân cư, có nhiều người và phương tiện lưu thông qua lại, thường xuyên có lực lượng tuần tra nếu thực hiện hành vi mua bán ma túy thì sẽ dễ dàng bị phát hiện và bị bắt nhung bị cáo không sợ sệt, không sợ bị phát hiện, bị cáo vẫn bán ma túy, chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi đó là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác như: trộm cắp, cướp giật, ... góp phần làm gia tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy trong xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, động cơ mục đích phạm tội nhằm để tư lợi cá nhân.

Bị cáo là người đã thành niên, về nhân thân bị cáo từng bị xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” đã được xóa án tích, trong thời gian chấp hành hình phạt, bị cáo đã được học tập, giáo dục, cải tạo giúp cho bị cáo biết được việc gì pháp luật cho phép, việc gì pháp luật cấm. Lẽ ra bị cáo phải biết rèn luyện phẩm chất đạo đức, cố gắng lao động để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu bản thân và chăm lo cho gia đình, làm tấm gương tốt để con cái nói theo. Thế nhưng với lối sống thích hưởng thụ, chỉ biết sống cho bản thân, bị cáo đã sử dụng ma túy và trở thành đối tượng nghiện, để có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng nên khi nhận được ma túy của người tên H3 ở Thành phố Hồ Chí Minh thì bị cáo cất giấu để bán lại cho các đối tượng nghiện khác. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 19/01/2021, sau khi bán ma túy cho L và M1 thì bị cáo bị bắt, thu giữ khối lượng ma túy ở nhà của bị cáo là 0,874 gam, loại Methamphetamine.

[3] Từ những phân tích trên cho thấy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) …………

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c)……………….

[4] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Xét thấy, phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý nghiêm, bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian dài để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt, tu dưỡng bản thân, có ý thức chấp hành pháp luật, nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nng: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy, tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy cần áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen của bị cáo là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội và số tiền 450.000 đồng do bán ma túy mà có cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 04 phong bì, 03 đoạn ống thủy tinh được uốn cong một đầu, 01 bình nhựa hiệu Sting, 02 cây kéo, 01 hột quẹt gas, 07 bịch nylon màu trắng dạng nắp kẹp một đầu là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền còn lại 950.000 đồng của bị cáo cần tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Hiện tiền và các vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc đang quản lý).

[10] Về án phí: Bị cáo Bùi Trung N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[11] Đối với hành vi sử dụng ma túy của T và C, hành vi mua ma túy cất giấu để sử dụng của L và Ml bị bắt quả tang, nhưng qua kết quả giám định khối lượng ma túy chua đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan Cảnh sát điều tra đã có văn bản đề nghị Công an thành phố xem xét, xử lý theo quy định.

Đối với người thanh niên tên H3 (không rõ họ tên, địa chỉ) ở Thành phố Hồ Chí Minh cho N ma túy để bán, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Trung N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Trung N mức án 07 năm 06 tháng tù (Bảy năm sáu tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 17/10/2021 (được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/01/2021 đến ngày 28/01/2021).

Về hình pht bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân s: Không.

Về xử lý vật chng: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen của bị cáo Bùi Trung N là công cụ sử dụng vào việc phạm tội;

+ Số tiền 450.000 đồng (trong số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo Bùi Trung N) do bán ma túy mà có.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 02 phong bì được niêm phong ghi số 56/1 và 56/2 cùng ngày 19/01/2021, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Đinh Nhựt D1, Lê Minh V2, Nguyễn Quang V3 và Bùi Trung N;

+ 01 phong bì được niêm phong ghi số 69 ngày 20/01/2021, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Văn E1, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Quang V3 và Lại Quốc L;

+ 01 phong bì được niêm phong ghi số 70 ngày 20/01/2021, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Văn E1, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Quang V3 và Phạm Nguyễn Gia M1;

+ 03 ống thủy tinh được uốn cong một đầu;

+ 01 bình nhựa hiệu Sting;

+ 02 cây kéo; 01 hột quẹt gas;

+ 07 bịch nylon màu trắng dạng nắp kẹp một đầu.

- Tiếp tục quản lý:

- Số tiền 950.000 đồng (trong số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo Bùi Trung N) để đảm bảo thi hành án.

(Hiện tiền và các vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/02/2022).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án năm 2016

Bị cáo Bùi Trung N nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày hôm nay tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về