Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 04/2022/HSST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2021/TLST-HS ngày 15/11/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HS ngày 05/01/2022, đối với bị cáo:

HOÀNG THỊ KIM D, tên gọi khác: Không; sinh ngày 29/3/1969, tại Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 7, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở hiện nay: Tổ 2, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Khắc M và bà Đỗ Thị Bạch T; có chồng là Phạm Hồng L đã chết và 03 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 359/2009/HSST, ngày 26/10/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến nay đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2021 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Luật sư Mạc Thị H, Văn phòng Luật sư An Toàn, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên cử, (có mặt).

* Người chứng kiến: Bà Trần Thị N, sinh năm 1963, trú tại tổ 2, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 14 giờ 15 phút ngày 11/8/2021, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên đã bắt quả tang Hoàng Thị Kim D, sinh năm 1969, trú tại tổ 7, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, chỗ ở tổ 2, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần phía trước của D đang mặc 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các cục chất bột màu trắng, D khai nhận là Heroine và 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các cục chất tinh thể màu trắng, D khai nhận là ma túy dạng đá, được niêm phong ký hiệu A. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và đưa D về Cơ quan điều tra để làm rõ.

Hồi 16 giờ ngày 11/8/2021, tiến hành khám xét chỗ ở của D tại tổ 2, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đen, đã qua sử dụng, được niêm phong ký hiệu Đ. Hồi 17 giờ cùng ngày, tiến hành mở niêm phong ký hiệu A, cân toàn bộ cục chất bột màu trắng có khối lượng 20,83 gam. Trộn đều lấy ngẫu nhiên 0,61 gam niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định, còn lại niêm phong ký hiệu A2 lưu kho. Cân toàn bộ cục chất tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu A, có khối lượng là 13,75 gam, trộn đều lấy ngẫu nhiên 1,66 gam niêm phong ký hiệu A3 gửi giám định, còn lại niêm phong ký hiệu A4 lưu kho. Tiến hành mở niêm phong Đ kiểm tra chiếc điện thoại thu giữ khi khám xét, kết quả không có dữ liệu gì liên quan.

Tại cơ quan điều tra D khai nhận: Khoảng 20 giờ tối ngày 01/8/2021, D đi đến khu vực Cầu Gia Bẩy, thuộc phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, mua số ma túy trên của một người đàn ông không rõ nhân thân, với giá 12.000.000 đồng, sau khi mua được ma túy, D mang về chỗ ở cất giấu nhằm mục đích để bán kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại Kết luận giám định số 1260 ngày 19/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 20,83 gam; mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ ban đầu là 13,75 gam. Tổng khối lượng 02 loại chất ma túy đã thu giữ của D là 34,58 gam.

Bản cáo trạng số 82/CT-VKS, ngày 08/11/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo HOÀNG THỊ KIM D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung  cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên bố bị cáo HOÀNG THỊ KIM D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo HOÀNG THỊ KIM D từ 16 năm đến 17 năm tù. Phạt bị cáo từ 05 triệu đến 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung của bị cáo.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh đặc biệt của bị cáo, nhận thức pháp luật còn hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của Luật sư.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên và người bào chữa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, Luật sư và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/8/2021, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 20,83 gam ma túy, loại Heroine và 13,75 gam ma túy loại Methamphetamine, tổng cộng 34,58 gam với giá 12.000.000 đồng của một người đàn ông không rõ nhân thân, tại khu vực cầu Gia B, thuộc phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, với mục đích mang về để bán kiếm lời, nhưng chua kịp bán thì bị Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Với hành vi nêu trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, điều luật có nội dung:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 đến 07 năm.

... 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.

...h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng... của các chất đó tương đương với khối lượng... chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, gây hủy hoại sức khỏe của con người và làm nguy cơ gia tăng các loại tội phạm khác. Tính chất nghiêm trọng trong vụ án này, thể hiện ở khối lượng ma túy do bị cáo mua bán trái phép nhằm mục đích kiếm lời. Xét thấy, cần phải xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù và cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong công cuộc phòng chống tội phạm.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án đến nay đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm mà lại tiếp tục phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn, hối cải, do đó, bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Ngoài ra bị cáo có bố đẻ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.

Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

[5] Vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy các bì niêm phong, bên trong có chứa chất ma túy được ký hiệu A1, A2, A3, A4 thu giữ của bị cáo.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa, xác định bị cáo đã sử dụng chiếc điện thoại này vào việc mua bán ma túy, xét thấy cần tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích lợi nhuận, vì vậy cần phạt bổ sung một khoản tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự để sung quỹ nhà nước.

Đối với số ma túy, theo bị cáo khai là mua của người đàn ông tại khu vực cầu Gia Bẩy, thuộc phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên vào ngày 29/6/2021. Do bị cáo không biết rõ nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo HOÀNG THỊ KIM D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo HOÀNG THỊ KIM D 16 (mười sáu) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam 11/8/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy gồm:

1. 01 niêm phong ký hiệu A2, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Phan Thanh H, Nguyễn Hồng Đ, Nguyễn Thị Thu H1, Lương Văn M1, Trần Thị N, HOÀNG THỊ KIM D và 03 hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 20,22 gam chất ma túy, loại Heroine.

2. 01 niêm phong ký hiệu Al, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T1, Nguyễn Minh T2 và 03 hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,60 gam chất ma túy, loại Heroine và vỏ bao mẫu A1 gửi giám định.

3. 01 niêm phong ký hiệu A4, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Phan Thanh H, Nguyễn Hồng Đ, Nguyễn Thị Thu H1, Lương Văn M1, Trần Thị N, HOÀNG THỊ KIM D và 03 hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 12,09 gam chất ma túy, loại Methamphetamine.

4. 01 niêm phong ký hiệu A3, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T1, Nguyễn Minh T2 và 03 hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 1,56 gam chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao mẫu A3 gửi giám định.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, màu đen, số Imei 1: 353408114185166, số Imei 2: 353409114185164, bên trong có lắp sim số thuê bao là 0988.119.028 được niêm phong ký hiệu D trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Phan Thanh H, Nguyễn Hồng Đ, Nguyễn Thị Thu H1, Trần Thị N, HOÀNG THỊ KIM D và 03 hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên.

Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên ngày 09/11/2021.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thương vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, Điều 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HSST

Số hiệu:04/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về