Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 67/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn C, sinh ngày 08/10/1972 tại huyện T, tỉnh Cao Bằng;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 10, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12 phổ thông; Con ông Hoàng Văn B, sinh năm 1943 (đã chết) và bà Hoàng Thị B, sinh năm 1942; Vợ: La Thị H, sinh năm 1970; Con: Bị cáo có 01 con, sinh năm 1992; Tiền án, Tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2005, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách về tội: Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, nhưng đã được xóa án.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2019, hiện đang giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

2. Nguyễn Văn H, sinh ngày 12/9/1985 tại huyện T, tỉnh Cao Bằng Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm C Sộc Riêng, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 12/12 phổ thông. Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1966 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1964; Vợ: Trần Thị K, sinh năm 1990; Con: có 01 con, sinh năm 2010; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2019, hiện đang giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

3. Lô Văn M, sinh ngày 23/4/1991 tại huyện T, tỉnh Cao Bằng Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm C, xã N, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12 phổ thông. Con ông Lô Văn T, sinh năm 1946 và bà Lý Thị Th, sinh năm 1954; Vợ, con: chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2019, hiện đang giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

Người bào chữa: Bà Trần Thị T, Luật sư Văn Phòng luật sư T, Địa chỉ: Tổ 14, Phường N, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn C; có mặt.

Người làm chứng:

1. NLC 1; sinh năm1988; trú tại: Xóm C, xã N, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

2. NLC 2, sinh năm 1999; trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

3. NLC 3, sinh năm 1991; trú tại: Xóm S, xã H, huyện T tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

4. NLC 4, sinh năm 1992; trú tại: Xóm Sộc Khăm I, xã H , huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

5. NLC 5, sinh năm 1989; trú tại: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

6. NLC 6, sinh năm 1976; trú tại: Tổ 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

7. NLC 7, sinh năm 1980; trú tại: Xóm C, xã P, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

8. NLC 8, sinh năm 1982; trú tại: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

9. NLC 9, sinh năm 1984; trú tại: Xóm S, xã Đ, huyện T, tỉnh Cao Bằng; có mặt.

10. NLC 10, sinh năm 1989; trú tại: Xóm T, xã Lăng Yên, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

11. NLC 11, sinh năm 1982; trú tại: L, xã L, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

12. NLC 12, sinh năm 1989; trú tại: Xóm H, xã P, huyện T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 25/6/2019, tại khu vực phía sau Siêu thị Đ thuộc tổ 11, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng, Tổ công tác của Công an huyện T phối hợp với Ban Công an thị trấn T phát hiện và bắt quả tang 02 đối tượng Nguyễn Văn H và Lô Văn M có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ được bao gồm: 01 túi ni lông màu trắng bên trong có 20 gói giấy nhỏ gồm 04 gói giấy báo, 15 gói giấy màu vàng và 01 gói giấy bạc trắng, bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng thu giữ trong tay phải của H Tổ công tác đã lập biên bản quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật. Lô Văn M khai số ma túy bị thu giữ trên của M mua giúp H, M mua với Hoàng Văn C ở tổ 10 thị trấn T, huyện T với số tiền 2.000.000 đồng. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 220.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung loại màn hình cảm ứng có vỏ màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại Qmobile ký hiệu Q118 màu nâu đen, đã qua sử dụng.

Ngày 26/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Văn C, đã thu giữ: 01 gói giấy vệ sinh màu trắng bên trong có 05 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy vỏ kẹo màu xanh đỏ; 01 vỏ cây thuốc lá Du lịch bên trong có 01 túi ni lông màu trắng chứa 02 gói giấy bạc màu trắng; 01 hộp nhựa màu xanh rêu bên trong có 01 túi ni lông màu hồng đựng 02 thỏi chất bột màu trắng, 05 gói ni lông màu đen và 01 gói giấy báo. Tất cả các gói bên trong đều chứa các cục bột màu trắng, C khai nhận đó là Heroine. Ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động màu xanh dương nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung; số tiền 1.200.000 đồng; 01 cân tiểu li điện tử màu đen trắng đã qua sử dụng; 01 kéo kim loại màu trắng; 01 mảnh ni lông màu đen đã cắt vuông; 07 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 dao kim loại dạng gấp màu trắng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành mở niêm phong tang vật, cần xác định khối lượng và trích mẫu giám định. Toàn bộ số chất bột rắn màu trắng trong 20 gói giấy đã thu giữ của Nguyễn Văn H và Lô Văn M có khối lượng 1,0618g. Toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Văn C có khối lượng 94,3072g. Tại bản Kết luận giám định số 201 ngày 05/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “02 mẫu chất bột màu trắng bên trong 02 phong bì niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại: Heroine”.

Quá trình điều tra, Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M khai nhận hành vi phạm tội như sau: Buổi chiều ngày 25/6/2019, Nguyễn Văn H gọi điện thoại cho Lô Văn M nhờ mua Heroine với số tiền 2.000.000 đồng. M đồng ý và bảo H đến khu vực đường tròn gần Ngân hàng nông nghiệp huyện T. H một mình đi xe máy đến chỗ hẹn đưa tiền cho M và hẹn M ở sau Siêu thị Đ thuộc tổ 11, thị trấn T, huyện T. Sau đó, M điện thoại gọi cho Hoàng Văn C hỏi mua Heroine với số tiền 2.000.000 đồng. C đồng ý và hẹn M ra đường đôi cạnh quán chăn ga gối đệm Kim Cương để giao nhận ma túy. M ra chỗ hẹn và đưa tiền cho C, C đưa cho M 01 gói Heroine được gói bắng giấy vệ sinh màu trắng. Nhận được Heroine, M đi đến sau Siêu thị Đ đưa Heroine cho H. H mở ra xem thấy bên trong có 05 gói nhỏ dồn tất cả lại rồi chia số Heroine ra thành 20 gói nhỏ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Chia xong H cầm số Heroine trên tay, số Heroine còn dư một ít H và M cùng sử dụng. Khi vừa sử dụng xong thì bị lực lượng công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Mở rộng điều tra, trước đó H còn được bán Heroine cho nhiều người, cụ thể: Bán cho NLC 5 (trú tại: C, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 02 lần, mỗi lần 100.000 đồng; bán cho NLC 9 (trú tại: xóm S, xã Đ, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 02 lần, mỗi lần 100.000 đồng; bán cho NLC 8 (trú tại: C, xã T, huyện T, Cao Bằng) 01 lần với giá 100.000 đồng; bán cho NLC 7 (trú tại: xóm C, xã P, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 02 lần, mỗi lần bán với giá 100.000 đồng và nhiều người khác không biết tên tuổi địa chỉ.

Đối với Lô Văn M, ngoài mua Heroine giúp H ngày 25/6/2019 thì M còn được mua Heroine với C về sử dụng một lần vào ngày 21/6/2019 với số tiền 200.000 đồng. Ngoài ra, trước đó, M còn được giúp C bán Heroine tại căn nhà cấp 4 ở tổ 4, thị trấn T, huyện T và được C cho Heroine sử dụng, cụ thể: bán cho cho NLC 4 (trú tại: Xóm Sộc Khăm I, xã H, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 3 (trú tại: Xóm S , xã H, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 10 (sinh năm 1989; trú tại: Xóm T, xã Lăng Yên, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 11 (trú tại: L, xã L, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 12 (trú tại: Xóm H, xã P, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 gói ma túy với số tiền 200.000 đồng, ngoài ra M còn được bán cho một số người nữa nhưng không nhớ rõ họ và địa chỉ.

Đối với Hoàng Văn C, ngoài những lần nhờ M bán hộ Heroine, C còn được bán ma túy cho nhiều người khác. Cụ thể: Bán cho NLC 6 (trú tại: Tổ 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 1 (trú tại: Xóm C, xã N, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 2 (trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) 02 lần, một lần 500.000 đồng và một lần 1.000.000 đồng; bán cho Lô Văn M 02 lần, một lần 200.000 đồng và một lần 2.000.000 đồng vào chiều ngày 25/6/2019 và nhiều người khác nhưng không biết tên tuổi địa chỉ.

Toàn bộ số Heroine bị thu giữ ngày 26/6/2019 và bán cho M ngày 25/6/2019 C khai nhận là mua với người đàn ông không quen biết ở bãi xe Container Đình Văn với số tiền 50.000.000 đồng vào trưa ngày 25/6/2019.

Hành vi của Hoàng Văn C đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Nguyễn Văn H và Lô Văn M đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng truy cứu trách nhiệm hình sự tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại bản cáo trạng số: 61/CTr -VKSCB-P1, ngày 29-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã truy tố Hoàng Văn C về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Truy tố Nguyễn Văn H và Lô Văn M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M thừa nhận hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để bị cáo có thời gian cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có điều kiện sớm hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Người làm chứng NLC 9 trình bày: Được mua ma túy với bị cáo H 02 lần, mỗi lần 100.000đ, những người làm chứng khác vắng mặt tại tòa, nhưng lời khai tại cơ quan điều tra hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo về số lần, số tiền cũng như thời gian và địa điểm mua bán ma túy.

Luật sư trình bày: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, căn cứ vào khối lượng heroine Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Hoàng Văn C theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, Luật sư nhất trí theo cáo trạng. Các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bố bị cáo được Nhà nước tặng Huân chương đã được Viện kiểm sát xem xét, tuy nhiên tại cơ quan điều tra bị cáo đã tự thú với những lần phạm tội trước đó, nên đề nghị xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ là tự thú cho bị cáo C và xem xét mức án nhẹ nhất có thể theo quy định.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Văn H và Lô Văn M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn C từ 17 đến 18 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lô Văn M từ 07 đến 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 07 đến 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để xử lý vật chứng của vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Nguyễn Văn H và Lô Văn M, bắt quả tang ngày 25/6/2019, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy”. 01 (một) phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Hoàng Văn C sinh năm 1972; trú tại: Tổ 10, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; bắt ngày 26/6/2019”. 01 (một) Con dao gấp nhọn màu trắng đã qua sử dụng; 01 (một) kéo nhỏ màu trắng cũ; 01 (một) vỏ hộp nhựa màu xanh rêu; 01 (một) vỏ cây thuốc lá Du lịch; 01 (một) mảnh giấy nilon màu đen cắt vuông; 07 (bảy) mảnh giấy bạc màu trắng. 01 cân điện tử màu bạc trắng đen đã qua sử dụng.

Tịch thu, phát mại sung công quỹ 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương, số seri1: 352895106958751 (đã qua sử dụng). Điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile (Q118P nàu nâu đen, sô IMEI: 35344305432 (đã qua sử dụng). Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng vỏ màu đen, số IMEI: 359051092694728/01 (đã qua sử dụng).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) của bị cáo C; số tiền 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng) của bị cáo H.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn C 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 354402103868121/01 (đã qua sử dụng), bị cáo không dùng vào việc thực hiện tội phạm.

- Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

Các bị cáo đều nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng và không có ý kiến tranh luận.

Khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, để được hưởng mức án nhẹ nhất sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Cao Bằng và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể: Hồi 17 giờ 30 phút ngày ngày 25/6/2019, tại khu vực phía sau Siêu thị Đ thuộc tổ 11, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng, tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Ban Công an thị trấn T đã bắt quả tang hai đối tượng Nguyễn Văn H và Lô Văn M có hành vi tàng trữ trái phép 1,0618g Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Mở rộng điều tra, khám xét nhà Hoàng Văn C thu giữ 94,3072g Heroine cũng với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Do vậy, Nguyễn Văn H và Lô Văn M phải chịu trách nhiệm với khối lượng 1,0618g Heroine, Hoàng Văn C phải chịu trách nhiệm với khối lượng 94,3072g Heroine và khối lượng 1,0618g Heroine tổng cộng là 95,369g Heroine. Quá trình điều tra xác định được trong khoảng tháng 6/2019, Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M đã thực hiện hành vi bán Heroin nhiều lần cho nhiều đối tượng sử dụng ma túy tại huyện T, tỉnh Cao Bằng.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra được thể hiện qua các Biên bản ghi lời khai, Bản tự khai phù hợp với lời khai của những người đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với các bị cáo là NLC 1, NLC 2, NLC 3, NLC 4, NLC 5, NLC 6, NLC 7, NLC 8, NLC 9, NLC 10, NLC 11, NLC 12 về cách thức mua bán ma túy, thời gian, địa điểm cũng như số lần mua bán ma túy đã thực hiện. Cụ thể:

Nguyễn Văn H: Bán cho NLC 5 02 lần, mỗi lần 100.000 đồng; bán cho NLC 9 02 lần, mỗi lần 100.000 đồng; bán cho NLC 8 01 lần với giá 100.000 đồng; bán cho NLC 7 02 lần, mỗi lần bán với giá 100.000 đồng và nhiều người khác không biết tên tuổi địa chỉ.

Lô Văn M: bán cho NLC 4 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 3 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 10 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 11 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 12 01 gói ma túy với số tiền 200.000 đồng, ngoài ra M còn được bán cho một số người nữa nhưng không nhớ rõ họ và địa chỉ.

Hoàng Văn C: Bán cho NLC 6 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 1 01 lần với số tiền 200.000 đồng; bán cho NLC 2 02 lần, một lần 500.000 đồng và một lần 1.000.000 đồng; bán cho Lô Văn M 02 lần, một lần 200.000 đồng và một lần 2.000.000 đồng vào chiều ngày 25/6/2019 và nhiều người khác nhưng không biết tên tuổi địa chỉ.

Từ các tài liệu, chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Xét thấy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Nguyễn Văn H và Lô Văn M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết việc mua bán ma túy trái phép là vi phạm pháp luật, tuy nhiên các bị cáo đã sa vào con đường nghiện ma túy. Các bị cáo đã nhiều lần có hành vi mua ma túy về sử dụng cho bản thân, và bán lại cho những đối tượng nghiện khác trên địa bàn huyện T kiếm lời.

Hành vi phạm tội của bị cáo C là đặc biệt nghiêm trọng, của bị cáo H và bị cáo M là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước, tạo điều kiện cho các tội phạm về ma túy tồn tại. Mặt khác hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, cản trở cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma tuý của Đảng và Nhà nước ta nên cần xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy ở địa phương.

Trong vụ án này, bị cáo Hoàng Văn C mua bán khối lượng ma túy lớn hơn nhiều so với bị cáo H và bị cáo M, đồng thời là người thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy rất tích cực, cho bị cáo Lô Văn M giúp mua bán ma túy và trực tiếp thực hiện hành vi bán ma túy nhiều lần với người khác; Bị cáo Nguyễn Văn H nhờ bị cáo M mua giúp ma túy và cũng trực tiếp bán ma túy nhiều lần, cho nhiều người khác; Lô Văn M đã giúp bị cáo C và bị cáo H mua bán ma túy nhiều lần và rất nhiệt tình và tích cực. Do vậy, cần cân nhắc mức hình phạt đối với từng bị cáo cho phù hợp với pháp luật.

[3]. Về nhân thân, tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M đều không có tiền án, tiền sự ( Bị cáo C năm 2005, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách về tội: Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, nhưng đã được xóa án). Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi mua bán ma túy của mình và tỏ ra ăn năn hối cải. Ngoài ra bố đẻ của hai bị cáo Hoàng Văn C và Lô Văn M đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước, gia đình có công với cách mạng. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với cả ba bị cáo, áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn C và Lô Văn M. Tại phiên tòa Luật sư đề nghị cho bị cáo C hưởng tình tiết giảm nhẹ là tự thú nhưng qua xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, như ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Các nhận định khác:

Về nguồn gốc số Heroin, Hoàng Văn C khai mua với một người đàn ông người đàn ông không quen biết ở bãi xe Container Đình Văn với số tiền 50.000.000 đồng vào trưa ngày 25/6/2019 nhưng không biết rõ địa chỉ cụ thể. Quá trình điều tra vụ án không xác định được danh tính, nhân thân và địa chỉ của người này, nên xét thấy không đủ căn cứ để kiến nghị mở rộng vụ án.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoàn cảnh điều kiện cụ thể, số lượng mua bán ma túy cần phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn C số tiền là 5.000.000đ, để sung công quỹ nhà nước; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn H và Lô Văn M.

[6]. Việc xử lý vật chứng:

Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy vì là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 17 năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 26/6/2019.

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lô Văn M 07 năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 25/6/2019.

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 07 năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 25/6/2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Văn C số tiền là 5.000.000đ ( Năm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Nguyễn Văn H và Lô Văn M, bắt quả tang ngày 25/6/2019, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Hoàng Văn C sinh năm 1972; trú tại: Tổ 10, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; bắt ngày 26/6/2019”.

- Tiêu hủy 01 (một) con dao gấp nhọn màu trắng đã qua sử dụng; 01 (một) kéo nhỏ màu trắng cũ; 01 (một) vỏ hộp nhựa màu xanh rêu; 01 (một) vỏ cây thuốc lá du lịch; 01 (một) mảnh giấy nilon màu đen cắt vuông; 07 (bảy) mảnh giấy bạc màu trắng.

Tịch thu của bị cáo Hoàng Văn C:

- Tịch thu 01 cân điện tử màu bạc trắng đen đã qua sử dụng - Tịch thu 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương, số seri1:

352895106958751 (đã qua sử dụng).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) - Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn C 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 354402103868121/01 (đã qua sử dụng).

Tịch thu của Nguyễn Văn H:

- Tịch thu Điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile (Q118P màu nâu đen, số IMEI: 35344305432 (đã qua sử dụng).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng) Tịch thu của Lô Văn M:

- Tịch thu điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng vỏ màu đen, số IMEI: 359051092694728/01 (đã qua sử dụng) Xác nhận toàn bộ các vật chứng nêu trên đã được chuyển giao cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao nhận vật chứng số: 23 ngày 19 tháng 12 năm 2019.

4. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Văn H và Lô Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi người 200.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo. Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về