Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Trọng C; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 09 tháng 02 năm 1992 tại xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Xóm P, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Khôn; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Trọng H và bà Nguyễn Thị B; Vợ: Nguyễn Thị H và có 01 con; Tiền sự, tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 25 tháng 3 năm 2019, bị Công an xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2021, tại địa bàn huyện N, tỉnh Nghệ An, Hồ Trọng C đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 12 giờ ngày 25 tháng 10 năm 2021, C bắt xe Taxi đến khu vực đường Đ thuộc phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An gặp và mua của một người đàn ông tên Q (Không biết lý lịch, địa chỉ cụ thể) 01 gói ma túy với giá 1.250.000 đồng rồi đem về nhà sử dụng một ít. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, có Nguyễn Đức T nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy thì C đồng ý và hẹn ra khu vực cầu B thuộc xã N, huyện N để nhận ma túy. Tại đây, T đưa cho C 250.000 đồng và nhận từ bị cáo 01 gói ma túy, sau đó cả hai đi về. Số ma túy mua được của C, T đã sử dụng hết.

Lần thứ hai: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 26 tháng 10 năm 2021 Võ Văn L và Nguyễn Quang H cùng nhau góp tiền mua ma túy. L liên lạc qua mạng xã hội Zalo hỏi mua của C 300.000 đồng ma túy thì C đồng ý và hẹn L chiều cùng ngày đến lấy. Đến 18 giờ cùng ngày, H chở L đến khu vực gần nhà C. H đứng chờ còn L đi bộ một mình đến trước cổng nhà gặp C. Tại đây, L đưa cho C 300.000 đồng, C đưa cho L 01 gói ma túy rồi đi về. Đến 07 giờ ngày 27/10/2021, khi L và H mang số ma túy mua của C đi đến khu vực xóm L, xã Nghi D, huyện N để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện N phát hiện, thu giữ trong túi quần bên phải của L 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. Cùng ngày, C đến Cơ quan điều tra đầu thú về hành vi đã bán ma túy cho L và H vào ngày 26 tháng 10 năm 2021, đồng thời đã tự khai nhận hành vi đã bán ma túy cho Nguyễn Đức T vào ngày 25 tháng 10 năm 2021.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 27/10/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Nghệ An xác định: Khối lượng số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Võ Văn L và Nguyễn Quang H là 0,07 gam (Không phẩy, không bảy gam) và lấy toàn bộ gửi đi giám định, không hoàn lại mẫu vật.

Tại bản kết luận giám định số 1451/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Võ Văn L và Nguyễn Quang H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,07 gam (Không phẩy, không bảy gam).

Bản cáo trạng số 07/CT-VKS-NL ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Hồ Trọng C về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Trọng C về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả của vụ án, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hồ Trọng C phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy". Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng đến 04 (Bốn) năm 09 (Chín) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu vàng-trắng; Truy thu của bị cáo số tiền 550.000 đồng do phạm tội mà có; Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện Nghi Lộc ban hành, bên trong chứ 01 (Một) vỏ túi nilon màu trắng và 01 (Một) vỏ phong bì thư bưu điện đã mở niêm phong ban đầu không có giá trị sử dụng.

Bị cáo đồng ý với ý kiến trình bày luận tội của Kiểm sát viên và không tranh luận đối đáp gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình và rất ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2]. Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt:

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như kết luận điều tra và nội dung bản cáo trạng truy tố, ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với đơn xin đầu thú, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án...được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25 tháng 10 năm 2021, tại khu vực cầu B thuộc xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, bị cáo C đã bán cho Nguyễn Đức T 01 (Một) gói ma túy (Methamphetamine), với giá 250.000 đồng, rồi sau đó T đã sử dụng hết. Tiếp theo vào khoảng 18 giờ, ngày 26 tháng 10 năm 2021, tại khu vực xóm P, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, bị cáo đã bán cho Võ Văn L 01 gói ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,07 gam (Không phẩy, không bảy gam) với giá 300.000 đồng. Đến 07 giờ ngày 27 tháng 10 năm 2021, L và H mang số ma túy mua được của bị cáo đến khu vực xóm L, xã N, huyện N để sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện, thu giữ. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” của bị cáo được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là thuộc tội phạm rất nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, đồng thời loại tội này đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, gây nhức nhối cho xã hội và trở thành nỗi lo của nhiều gia đình. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực Kinh tế, Văn hóa, Xã hội, An ninh-Quốc phòng, làm tổn hại sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm. Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là phạm tội nhưng do lười lao động và muốn thu lợi bất chính nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 25 tháng 3 năm 2019 bị Công an xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Võ Văn Lương vào ngày 26/10/2021 bị cáo đã đến Công an huyện N đầu thú,đồng thời đã tự khai nhận ra hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đức Thơ trước đó vào ngày 25/10/2021, điều đó đã giúp cơ quan điều tra trong việc phát hiện và điều tra tội phạm, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, nên để có lợi cho bị cáo cần xem xét đây là trường hợp người phạm tội tự thú, đồng thời theo lời khai của bị cáo cũng như tài liệu có trong hồ sơ thể hiện gia đình bị cáo có ông bà nội được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là điều cần thiết để bị cáo nhận thức được sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có ý thức chấp hành pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung:Theo quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là người nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Thu giữ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu vàng- trắng của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Thu giữ 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N ban hành, bên trong chứ 01 (Một) vỏ túi nilon màu trắng và 01 (Một) vỏ phong bì thư bưu điện đã mở niêm phong ban đầu. Xác đinh đây là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Biện pháp tư pháp: Truy thu số tiền 550.000 đồng của bị cáo do phạm tội mua bán trái phép chất ma túy cho T, L mà có để nộp ngân sách Nhà nước.

[8]. Các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Đức T, Võ Văn L, Nguyễn Quang H là những người đã mua ma túy của bị cáo với mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy của bị cáo do T đã sử dụng hết và khối lượng ma túy mà L, H mua của bị cáo không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm Hình sự nên Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông tên Q đã bán ma túy cho bị cáo, kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

Đối với việc Nguyễn Quang H đã góp tiền với Võ Văn L để mua ma túy của C. Do C không biết việc H góp tiền với L để mua ma túy, quá trình mua bán ma túy thì chỉ có C và L trực tiếp mua bán với nhau nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C về tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Trọng C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hồ Trọng C 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 27/10/2021.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu vàng-trắng của bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội.

- Truy thu số tiền 550.000đ (Năm trăm năm mươi nghìn đồng) của bị cáo do phạm tội mà có để nộp ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện Nghi Lộc ban hành, bên trong chứ 01 (Một) vỏ túi nilon màu trắng và 01 (Một) vỏ phong bì thư bưu điện đã mở niêm phong ban đầu.

Số vật chứng trên hiện đang được lưu giữ và bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận ngày 06/01/2022.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm 5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

534
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về