Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI MUA BÁN, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T , tỉnh T  tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN HOÀNG P; Tên gọi khác: Khả Hân; sinh ngày 20/4/2000; Nơi sinh: tỉnh T ; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố C, Phường C, thành phố T, tỉnh T ; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Minh T (chết) và bà Nguyễn Hoàng D; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày ngày 30/11/2022 đến nay.

2. VÕ NGỌC Đ; Tên gọi khác: Kỳ A; sinh ngày 11/5/2006; Nơi sinh: tỉnh A; Giới tính: nữ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ắp T, xã T, huyện T, tỉnh A; Nơi ở hiện nay: Khu phố F, Phường D, thành phố T, tỉnh T . Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: phục vụ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Vồ Văn H và bà Trần Thùy T1; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2022 đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo Đ: Ông Lê Minh H1 - Là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T; Địa chỉ: số H Đường T, Phường B, thành phố T, tỉnh T .

3. NGUYỄN THỊ NGỌC M; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 29/7/2004; Nơi sinh: tỉnh T ; Giới tính: nữ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh T ; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: làm mướn; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Thanh S và bà Triệu Thị P; Chồng, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bi bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2023 đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo M: Bà Trần Thị T2 là Luật sư của Công ty L1; Địa chỉ: số A Đường T, khu phố N, phường N, thành phố T, tỉnh T .

4. TRẦN LONG V; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/8/2002; Nơi sinh: tỉnh T ; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã H, huyện C, tỉnh T ; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: làm mướn; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Năng T3 và bà Ngô Thị T4; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày ngày 09/3/2023 đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo V: Bà Bùi Thị Hoa M1 - Là Luật sư của Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn R - Đoàn Luật sư tỉnh T; Địa chỉ: D Đường C, Phường C, thành phố T, tỉnh T .

5. LÊ MINH C; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 21/8/2004; Nơi sinh: tỉnh T ; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T ; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Đ1 và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày ngày 09/3/2023 đến nay.

6. PHAN MINH H; Tên gọi khác: Ba Triệu; sinh ngày 29/01/2004; Nơi sinh: tỉnh T ; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh T ; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phan Minh T5 và bà Nguyễn Thị Trúc M2; Vợ: chưa có, con có 01 người sinh tháng 02/2023; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày ngày 31/3/2023 đến nay.

Tất cả các bị cáo và người bào chữa có mặt tại Pên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 30 tháng 11 năm 2022, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh T phối hợp cùng Công an thành phố T kiểm tra khách sạn 986 thuộc Khu phố F, Phường C, thành phố T, phát hiện tại phòng số 9202 có 07 người đang sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 và Đỗ Thái A1 sinh ngày 19/9/2007, ngụ Khu phố F, Phường I, thành phố T; Nguyễn Quang V2, sinh ngày 28/8/2002, ngụ ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T . Thu giữ trên bàn tròn trong phòng 9202 gồm: 01 dĩa sứ tròn màu trắng, trên dĩa có một ít chất bột màu trắng, được bỏ vào 01 bịch nylon loại kẹp đâu kích thước (4x3)cm; 01 bịch nylon loại kẹp đầu kích thước (4x3) cm chứa 01 viên nén màu nâu và một số vật chứng khác (có bản thống kê kèm theo).

* Kết luận giám định số 1589/KL ngày 07/12/2022 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: 01 viên nén màu nâu bên trong 01 bịch nylon dạng kẹp đầu (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,3596 gam. Mầu chất bột màu trắng bên trong 01 bịch nylon dạng kẹp đầu (kí hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,1097 gam.

Qua điều tra xác định được: Khoảng 23 giờ ngày 29/11/2022, Nguyễn Hoàng P1 cùng Lê Minh C, Nguyễn Quang V2 đến uống bia tại quán G thuộc Phường C, thành phố T, lúc này có Võ Ngọc Đ2 và Đỗ Thái AI là nhân viên của quán cùng tham gia. Trong lúc uống bia, do có sẵn ma túy mua trước đó của người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) tại Thành phố Hồ Chí Minh nên P1 rủ V2, C sử dụng ma túy, V2 đồng ý và nói lại Chánh biết, uống đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/11/2022 cả nhóm nghỉ, P1 nói mình có ma túy, rủ Đ2 tìm chỗ sử dụng, Đ2 đồng ý. Sau đó, P1 và Đ2 bàn, thống nhất đến khách sạn I, thuộc Phường C, thành phố T thuê phòng để cùng nhau sử dụng và kêu Đ2 thuê loa đèn. Do biết Huỳnh Đại T6, sinh năm 2005, ngụ Khu phố B, Phường A, thành phố T có quảng cáo cho thuê loa đèn, bán thuốc lá điện tử trên mạng xã hội nên Đ2 gọi T6 thỏa thuận thuê với giá 500.000 đồng, hẹn trả tiền sau T6 đồng ý. Sau khi gọi điện cho T6, Đ2 rủ Thái A1 cùng đi sử dụng ma túy, Thái A1 đồng ý.

Sau khi thống nhất chọn địa điểm, P1, Đ2 và Thái A1 thuê taxi đến khách sạn, C và V2 chạy xe máy theo sau. Đến khách sạn, Đ2 vào làm thủ tục thuê phòng, do không giấy căn cước công dân nên Đ2 kêu Thái A1 đưa giấy căn cước công dân của Thái A1 để làm thủ tục. Thuê được phòng 9201, P1, Đ2 và Thái A1 lên phòng trước, C và V2 thay đồ lên sau. Vào phòng, Đ2 gọi cho T6 kêu mang loa đèn đến phòng 9201. Khoảng 20 phút sau, C và V2 vào phòng, sau đó khoảng 05 phút T6 mang loa đèn đến rồi ra về. Lúc này, Đ2 xuống lễ tân mượn một dĩa sứ màu trắng mang lên phòng, P1 gọi cho M3 rủ đến khách sạn sử dụng ma túy, sau đó P1 lấy 1/2 viên thuốc lắc màu xanh của mình cho vào ly nước, uống trước rồi đưa cho cả nhóm sử dụng; tiếp tục P1 lấy bịch ma túy khay của mình đổ ra dĩa sứ tiếp tục cùng nhóm sử dụng và nghe nhạc.

Trong lúc sử dụng, thấy ma túy còn ít nên P1 nói mua thêm ma túy sử dụng, cả nhóm đồng ý. Lúc này, P1 nhắn tin cho M3 nhờ mua ma túy thì điện thoại hết pin, nên P1 kêu Điểm liên hệ với M3 mua 01 chấm khay và 02 viên thuốc lắc. Do không biết chỗ mua ma túy nên M3 liên lạc với V1 nhờ mua ma túy cho Đ2, V1 đồng ý và liên lạc với Phan Minh H2 hỏi mua 01 chấm khay, 02 viên thuốc lắc, H2 đồng ý bán với giá 1.600.000 đồng, sau đó V1 nhắn tin báo giá cho M3 và kêu đưa địa chỉ để H2 giao ma túy, M3 nhắn số điện thoại của Đ2 cho V1. Nhận tin nhắn của M3, biết Đ2 là người mua ma túy nên V1 gọi hỏi Đ2 việc mua ma túy, đồng thời gửi số tài khoản của H2 cho Đ2 và gửi số điện thoại của Đ2 cho H2 để liên lạc giao ma túy.

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 30/11/2022, H2 đến trước khách sạn gọi Đ2 ra, gặp nhau H2 giao ma túy cho Đ2, nhận ma túy Đ2 nói với H2 chuyển khoản tiền mua ma túy, H2 đồng ý ra về. Sau khi có ma túy, Đ2 mang lên phòng, nhờ mọi người chuyển tiền cho H2 nhưng không có nên Đ2 kêu mọi người hùn tiền trả H2, P1 đồng ý đưa 350.000 đồng, C đưa 500.000 đồng, Điểm 750.000 đồng, được 1.600.000 đồng. Có tiền, Đ2 gọi điện cho H2 kêu trở lại trước khách sạn trả tiền, H2 trở lại gặp Đ2 nhận tiền xong ra về.

Sau khi mua được ma túy, P1 tiếp tục gọi cho M3 rủ đến khách sạn sử dụng ma túy. M3 đến, P1 đưa bịch nylon chứa 02 viên thuốc lắc mua được cho Đ2, Đ2 lấy 01 viên cắn bể ra làm hai đưa cho P1, P1 lấy một nữa đưa cho M3 sử dụng, nữa còn lại để vào chung viên còn lại. Trong lúc sử dụng, thấy phòng 9202 rộng hơn, cửa đang mở nên Đ2 rủ cả nhóm qua phòng 9202 để tiếp tục sử dụng.

Khoảng 03 giờ 40 phút cùng ngày, Đ2 gọi điện rủ V1 đến phòng 9202 cùng nhau sử dụng. V1 đến sử dụng một nữa viên thuốc lắc còn lại và số ma túy của P1 còn lại trên dĩa, sau đó láy bịch ma túy khay vừa mua đổ ra dĩa, lấy thẻ nhựa màu xanh của V1 mang theo, cà nhuyễn cùng V2, P1, Đ2 tiếp tục sử dụng. Đến khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày bị kiểm tra, qua làm việc P1, Đ2 thừa nhận hành vi tổ chức sử dụng ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang.

Qua xét nghiệm, Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Lê Minh C, Nguyễn Thị Ngọc M3, Trần Long V1, Đỗ Thái A1, Nguyễn Quang V2 dương tính với chất ma túy loại MDMA và Ketamine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Lê Minh C, Nguyễn Thị Ngọc M3, Trần Long V1 và Phan Minh H2 thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

Thu giữ của bị cáo Nguyễn Hoàng P1 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 35328907131285, không sim.

Thu giữ của bị cáo Võ Ngọc Đ2 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 3354454055857972, sim 0914924986.

Thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc M3 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 356713110251343, sim 0971045923.

Thu giữ của bị cáo Trần Long V1 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 2: 352634476662917, sim 0848177399.

Thu giữ của bị cáo Lê Minh C 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 355835089512073, sim 0363983353 01 gói niêm phong ghi vụ số 1589 có chữ lý của giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M4.

01 dĩa sứ màu trắng và 01 thẻ nhựa màu xanh.

01 điện thoại di động hiệu IPHONE của Đồ Thái A1 (đã trả lại).

01 điện thoại di động hiệu IPHONE của Nguyễn Quang V2 (đã trả lại).

01 loa phát nhạc và 01 đèn chớp của Huỳnh Đại T6 (đã trả lại).

Qua xác minh tài sản, Nguyền Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Lê Minh C, Nguyễn Thị Ngọc M3, Trần Long V1 và Phan Minh H2 không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTPTN ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T , tỉnh T  truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Phan Minh H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

* Tại Pên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội đối với các bị cáo như sau:

+ Kiểm sát viên phân tích tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng; Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh:

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Phan Minh H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

+ Về hình phạt đề nghị:

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo P1 từ 8-9 năm tù.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, 101, 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đ2 từ 6-7 năm tù.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo M3, bị cáo c từ 7 - 8 năm tù.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo V1 từ 7 - 8 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H2 từ 2 năm đến 2 năm 06 tháng tù.

Áp dụng hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước điện thoại của bị cáo P1, bị cáo Đ2, bị cáo M3, bị cáo V1. Trả lại điện thoại cho bị cáo C do không liên quan đến hành vi phạm tội. Tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại, đĩa sứ trắng và thẻ nhựa màu xanh.

- Người bào chữa cho bị cáo Đ2 thống nhất với tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo Đ2 như Viện kiểm sát luận tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ và bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để cho bị cáo được hưởng mức hình phạt từ 5 đến 6 năm tù.

- Người bào chữa cho bị cáo M3 thống nhất về tội danh như Viện kiểm sát truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vai trò của bị cáo M3 trong vụ án là vai trò thứ yếu do bị cáo M3 tham gia giai đoạn sau, không biết có người chưa đủ 16 tuổi tham gia sử dụng ma túy nên đề nghị không áp dụng điểm c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo M3. Đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh sống của bị cáo để có mức hình phạt nhẹ nhất đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo V1 thống nhất với tội danh, điều luật áp như Viện kiểm sát truy tố. Do bị cáo V1 có cha mẹ là người hoạt động cách mạng được tặng thưởng nhiều giấy khen, bản thân bị cáo cũng được tặng bằng khen do có thành tích xuất sắc trong hoạt động phòng chống dịch covid 19 nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” và “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ” theo quy định tại các điểm s, v, p khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được áp dụng thêm Điều 54 của của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

Tranh luận lại với người bào chữa cho bị cáo M3 và bị cáo V1, Kiểm sát viên cho rằng bị cáo M3 là người có vai trò quan trọng trong việc kết nối, tìm người bán ma túy cung cấp ma túy cho P1, Đ2, Chánh mua và cung cấp cho những người khác sử dụng, ngoài Thái A1 thì còn có bị cáo Đ2 cũng là người chưa thành niên nên lời tranh luận của người bào chữa cho bị cáo M3 là không có căn cứ. Đối với lời tranh luận của người bào chữa cho bị cáo V1 thấy rằng các tình tiết giảm nhẹ mà người bào chữa nêu và đề nghị cho bị cáo V1 được hưởng là “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” và “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ” theo quy định tại các điểm v, p khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự thấy rằng cha của bị cáo V1 là ông Trần Năng T3 chỉ tham gia dân công hỏa tuyến, không được tặng huân huy chương, quá trình sinh sống tại địa phương cũng chỉ được tặng giấy khen trong hoạt động phong trào của Hội cựu chiến binh, bản thân của bọ cáo được tặng bằng khen trong hoạt động cộng đồng phòng chống dịch do đó bị cáo không đủ điều kiện hưởng các tình tiết giảm nhẹ này mà đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, vì vậy không đủ điều kiện cho bị cáo Vũ hưởng thêm quy định tại Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

+ Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Các bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

+ Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các biết cáo biết hành vi của mình là sai trái, đã rất ăn năn hối cải đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để sớm trở về hòa nhập xã hội, chăm sóc cha mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thm tra tại Pên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại Pên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo, những người tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T; Điều tra viên; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T : Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Pên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện:

Ngày 30/11/2022, do có sẵn ma túy nên bị cáo Nguyễn Hoàng P1 rủ bị cáo Võ Ngọc Đ2 thuê phòng khách sạn tại Khách sạn I thuộc Khu phố F, Phường C, thành phố T và tổ chức cho bị cáo Lê Minh C, Nguyễn Quang V2 và Đỗ Thái AI chưa đủ 16 tuổi cùng nhau sử dụng ma túy. Trong lúc sử dụng, thấy ma túy còn ít nên bị cáo Nguyễn Hoàng P1 cùng bị cáo Võ Ngọc Đ2, bị cáo Lê Minh C hùn tiền được 1.600.000 đồng, nhờ bị cáo Nguyễn Thị Ngọc M3, bị cáo Trần Long V1 mua thêm ma túy loại MDMA (thuốc lắc) và ma túy loại Ketamine của bị cáo Phan Minh H2, tiếp tục tổ chức cho Đỗ Thái A1, Nguyên Quang V2 và bị cáo Nguyễn Thị Ngọc M3, bị cáo Trần Long V1 cùng sử dụng trái phép chất ma túy, đến khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh T phối hợp cùng Công an thành phố T kiểm tra bắt quả tang, thu giữ số ma túy còn lại loại MDMA, khối lượng 0,3596 gam; ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,1097 gam.

Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rồ hành vi tổ chức sử dụng chất ma túy, mua bán chất ma túy của mình là trái pháp luật, đã xâm phạm chế độ quản lí độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, trật tự an toàn xã hội, thấy được trước các tác hại của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện nên hành vi của các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo Phan Minh H2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Việc các bị cáo P1, Đ2, M3, V1 bàn nhau mua ma túy và liên hệ với bị cáo H2 để mua ma túy nhưng do mục đích mua ma túy là để sử dụng nên hành vi của các bị cáo không phải là hành vi đồng phạm, giúp sức cho bị cáo H2 bán ma túy, do đó các bị cáo không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTPTN ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T  truy tố các bị cáo về tội danh như trên là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 Phan Minh H2 phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bản cáo trạng và Bản luận tội, người bào chữa cho các bị cáo đề nghị cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy các các bị cáo quá trình điều tra và tại Pên tòa, đã thành khẩn khai báo, không khai gian dối một điều gì có liên quan đến hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử thấy có đủ điều kiện cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa bị cáo Đ2, bị cáo V1 cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự có căn cứ chấp nhận.

Ngoài ra, bị cáo V1 còn có cha là ông Trần Năng T3 tham gia dân công hỏa tuyến, trong quá trình sinh sống tại địa phương cha mẹ của bị cáo V1 được tặng thưởng nhiều giấy khen trong hoạt động của Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh xã H, huyện C, tỉnh T ; Bản thân của bị cáo cũng được tặng bằng khen do có thành tích xuất sắc trong hoạt động phòng chống dịch, các tình tiết này thuộc các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên người bào chữa cho bị cáo V1 cho rằng là tình tiết giảm nhẹ tại điểm V, P khoản 1 Điều 51 của BLHS là không có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử cho bị cáo Vũ hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về mức hình phạt: Theo quy định tại khoản 2 Điều 255 của BLHS thì mức hình phạt là từ 7 năm đến 15 năm, mức hình phạt tại khoản 1 Điều 251 của BLHS là từ 02 năm đến 07 năm. Tại Pên tòa, trong bản luận tội vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T  đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo P1 từ 8-9 năm tù, bị cáo Đ2 từ 6-7 năm tù, bị cáo M3, bị cáo C, bị cáo V1 từ 7-8 năm tù; bị cáo H2 từ 2 năm đến 2 năm 06 tháng tù.

Xét thấy các bị cáo có nhân thân không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; trong vụ án này, bị cáo P1 là người chủ động chuẩn bị ma túy, chủ động rủ rê các bị cáo tham gia vào việc sử dụng trái phép chất ma túy nên bị cáo phải chịu mức hình phạt cao nhất so với các bị cáo khác, xử phạt bị cáo 8 năm tù. Bị cáo Đ2 là người tích cực cùng bị cáo P1 chuẩn bị cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, cụ thể bị cáo Đ2 thuê phòng, thuê loa, liên lạc mua thêm ma túy, tuy nhiên do bị cáo Đ2 chưa thành niên nên mức hình phạt bị cáo phải chịu bằng 3/4 mức hình phạt của bị cáo P1, xử phạt bị cáo Đ2 6 năm tù; lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ2 là có căn cứ nên chấp nhận. Bị cáo M3 và bị cáo c là người góp tiền với bị cáo P1 và bị cáo Đ2 mua ma túy cho người khác sử dụng, bị cáo M3 tích cực giúp bị cáo P1 và bị cáo Đ2 mua ma túy cho người khác sử dụng và chính bị cáo cũng tham gia sử dụng nên bị cáo c và bị cáo M3 phải chịu mức hình phạt như nhau là 7 năm 6 tháng tù. Lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo M3 có căn cứ chấp nhận một phần.

Bị cáo Vũ giúp bị cáo P1 và bị cáo Đ2 mua ma túy, cùng tham gia sử dụng ma túy nhưng do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn các bị cáo khác nên phạt bị cáo 7 năm tù. Lời Luật sư bào chữa cho bị cáo V1 có căn cứ chấp nhận một phần.

Đối với bị cáo H2 là người bán ma túy cho các bị cáo tổ chức sử dụng, nhưng do bị cáo mới phạm tội lần đầu, có hoàn cảnh con nhỏ nên xem xét chấp nhận lời đề nghị của đại diện VKS, phạt bị cáo 2 năm 06 tháng tù.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo.

[6] Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Hoàng P1 và Phan Minh H2 do không rồ họ tên địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Đối với Đỗ Thái A1, sinh ngày 19/9/2007, khi sử dụng căn cước công dân của mình để thuê phòng vào ngày 30/11/2022, Thái AI chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xem xét xử lý.

[8] Đối với Nguyễn Quang V2, Đỗ Thái A1, Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 qua kiểm tra dương tính chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra quyết định xử phạt hành chính theo điểm a, khoản 4, Điều 23, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ là có căn cứ.

[9] Đối với Huỳnh Đại T6, không biết việc Đ2 thuê loa đèn để tổ chức sử dụng ma túy nên không xem xét xử lý.

[10] Về xử lý vật chứng:

Đối với điện thoại thu giữ của bị cáo P1, bị cáo Đ2, bị cáo M3, bị cáo C, bị cáo V1, các bị cáo đều khai nhận sử dụng điện thoại để liên lạc nhờ mua ma túy, rủ nhau cùng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số ma túy còn lại sau giám định, đĩa sứ trắng, thẻ nhựa màu xanh là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng cho hành vi phạm tội, chất ma túy là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[11] Án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Lê Minh C, Trần Long V1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Phan Minh H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng P1 8 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/11/2022.

2.2. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, 101, 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Võ Ngọc Đ2 6 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/11/2022.

2.3. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc M3 7 (bảy) năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/3/2023.

2.4. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Long V1 7 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/3/2023.

2.5. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh C 7 (bảy) năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/3/2023.

2.6. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Minh H2 2 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 35328907131285, không sim của bị cáo Nguyễn Hoàng P1.

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 3354454055857972,sim 0914924986 của bị cáo Võ Ngọc Đ2.

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 356713110251343, sim 0971045923 của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc M3.

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 2: 352634476662917, sim 0848177399 của bị cáo Trần Long V1.

3.2. Trả lại cho bị cáo Lê Minh C 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, imei 355835089512073, sim 0363983353.

3.3. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1589 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M4.

- 01 dĩa sứ màu trắng và 01 thẻ nhựa màu xanh.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng P1, Võ Ngọc Đ2, Nguyễn Thị Ngọc M3, Trần Long V1, Lê Minh C, Phan Minh H2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

5. Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo dưới 18 tuổi được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh T  trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

Số hiệu:60/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về