Bản án về tội môi giới mại dâm số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2022/HSST ngày 04 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HS ngày 18/3/2022, đối với bị cáo Nguyễn Thị H (Tên gọi khác: L), sinh năm 1979. Giới tính: Nữ. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Chỗ ở: Thôn D xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 3/12. Nghề nghiệp: Không. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1952. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Họ và tên chồng: Phạm Xuân T (Đã chết). Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2002. Tiền án, tiền sự: Không, về nhân thân: Bản án số 56/2015/HSST ngày 25/12/2015, Nguyễn Thị H bị Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Môi giới mại dâm, ngày 10/4/2016 H chấp hành xong hình phạt tù và ngày 05/06/2017 thi hành xong phần dân sự của bản án. Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Kim Thành từ ngày 22/12/2021 đến ngày 28/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 28/12/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Đỗ Thành Ch, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn M, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương.

2. Đặng Văn Th, sinh năm 1968. Địa chỉ: Phường T, thị xã K, tỉnh Hải Dương.

3. Trịnh Thị Y, sinh năm 1982. Địa chỉ: Khu T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.

4. Đinh Văn TI , sinh năm 1991. Địa chỉ: P, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.

5. Lò Thị L1, sinh năm 1987. Địa chỉ: Khu T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.

(Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 33 phút ngày 22/12/2021, Nguyễn Thị H đang ở nhà trọ thuộc thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương thì nhận được điện thoại di động của Đặng Văn Th , sinh năm 1968, trú tại: Phường T, thị xã K, tỉnh Hải Dương rủ H đến quán cà phê K ở khu Đ thuộc thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương uống nước. H đồng ý rồi điều khiển xe máy SIRIUS, biển số 99F1-499.41 của H đến quán cà phê K thì thấy Th đang ở đó cùng với Đỗ Thành Ch, sinh năm 1993, trú tại: Thôn M, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương, H vào ngồi uống nước cùng Th và Ch. Khoảng hơn 18 giờ cùng ngày, trong lúc ngồi uống nước, Th rủ H đi nhà nghỉ, H hiểu ý Th rủ H đi bán dâm cho Th, H đồng ý. Lúc này, thấy Th và H rủ nhau đi mua bán dâm, Ch liền bảo H tìm hộ người bán dâm cho Ch và đưa cho H 200.000 đồng tiền công. H cầm tiền rồi bảo Th và Ch đến nhà nghỉ T ở thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương do anh Đinh Văn T1, sinh năm 1991 đang làm quản lý thuê phòng trước, còn H đi tìm người bán dâm. Sau đó, H điều khiển xe máy của H đến quán cà phê H ở khu vực đường T, thị trấn P thì gặp Trịnh Thị Y, sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng đang đứng trước cửa quán, H rủ Y đến nhà nghỉ T bán dâm cùng với H. Y đồng ý và điều khiển xe máy VISION, biển số 15B3-625.82 của Y đi theo H đến nhà nghỉ T gặp Th và Ch đã thuê phòng xong đang đứng ở đó. Lúc này, H vào phòng 303 để bán dâm cho Th, Y vào phòng 304 để bán dâm cho Ch. Ở trong phòng nghỉ, Th đưa cho H 500.000 đồng, Ch đưa cho Y 600.000 đồng tiền mua dâm. Hồi 18 giờ 45 phút cùng ngày, tại phòng 303 và phòng 304 nhà nghỉ T, khi H và Th đang quan hệ tình dục, Y và Ch vừa quan hệ tình dục xong thì bị Tổ công tác thuộc Công an huyện Kim Thành phối hợp với Công an thị trấn Phú Thái kiểm tra phát hiện, thu giữ tại phòng 303 hai bao cao su đã qua sử dụng và 02 vỏ bao cao su, H tự nguyện giao nộp số tiền 700.000 đồng là tiền Ch và Th đưa cho H trước đó; thu giữ tại phòng 304 một bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su, Y tự nguyện giao nộp số tiền 600.000 đồng tiền của Ch đưa cho Y. Ngoài ra, lực lượng công an còn quản lý của H chiếc xe máy biển số 99F1- 99.41, quản lý của Y chiếc xe máy biển số 15B3-625.82.

Ngày 26/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành trả lại Trịnh Thị Y chiếc xe máy biển số 15B3-625.82.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị H đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu liên quan đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 18/QĐ-VKS ngày 03 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội Môi giới mại dâm theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, bị cáo xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội Môi giới mại dâm theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên nội dung truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội Môi giới mại dâm.

- Về điều luật áp dụng: Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy 03 bao cao su đã qua sử dụng; 03 vỏ bao cao su màu hồng nhãn hiệu SMW kích thước 5x5 cm.

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, SIRIUS màu đen, biển số 99F 1-499.41.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 1.300.000đồng.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo, các chứng cứ xác định tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo và lời khai của những người làm chứng tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng hơn 18 giờ ngày 22/12/2021, tại thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thị H có hành vi làm trung gian dẫn dắt để cho Trịnh Thị Y và Đỗ Thành Ch thực hiện hành vi mua bán dâm. Nguyễn Thị H đã thu lợi bất chính 200.000 đồng từ việc môi giới cho Ch và Y mua bán dâm. Hồi 18 giờ 45 phút cùng ngày, tại phòng 304, nhà nghỉ T thuộc thị trấn P, trong khi Y và Ch đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Tổ công tác thuộc công an huyện Kim Thành phối hợp với Công an thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo Nguyễn Thị H là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Thị H phạm tội Môi giới mại dâm, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội Môi giới mại dâm theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, điều kiện nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, nhằm thu lợi bất chính. Hành vi đó đã vi phạm pháp luật hình sự và gây mất trật tự trị an ở địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Dù vậy, nhưng bản thân bị cáo đã bị Tòa án tuyên phạt tù về tội Môi giới mại dâm, tuy đã được xóa án tích theo quy định nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội Môi giới mại dâm nên cần thiết phải xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo việc giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nhằm mục đích thu lợi bất chính nên cần thiết áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật hình sự để phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xác định 03 bao cao su đã qua sử dụng; 03 vỏ bao cao su màu hồng nhãn hiệu SMW kích thước 5x5 cm, là vật chứng của vụ án, vật không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.

Xác định 01 xe máy YAMAHA, SIRIUS, biển số 99F 1-499.41 là tài sản của bị cáo Huyền sử dụng vào việc phạm tội, tịch thu phát mại sung quỹ Nhà Nước.

Xác định số tiền 1.300.000đồng bị cáo cùng các đối tượng khác thu lợi và sử dụng bất chính, tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong vụ án này, đối với Trịnh Thị Y , Nguyễn Thị H, Đỗ Thành Ch và Đặng Văn Th có hành vi mua bán dâm, ngày 15/01/2022, Công an huyện Kim Thành đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ-XPHC, 03/QĐ-XPHC, 04/QĐ-XPHC và 05/QĐ-XPHC đối với Y, H, Ch, Th là phù hợp.

Đối với anh Đinh Công T1 là quản lý của nhà nghỉ T, sau khi cho thuê phòng 303 và 304, anh T1 nghi vấn Th và Ch có dấu hiệu mua dâm nên đã chủ động gọi điện, làm đơn trình báo vụ việc đến công an huyện Kim Thành, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương không đặt ra việc xử lý đối với anh T1 là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1/ Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội Môi giới mại dâm.

2/ Về hình phạt:

- Hình phạt chính:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22/12/2021.

- Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thị H 10.000.000(Mười triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

3/ Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 03 bao cao su đã qua sử dụng; 03 vỏ bao cao su màu hồng nhãn hiệu SMW kích thước 5x5 cm.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, SIRIUS màu đen, biển so 99F 1-499.41.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 1.300.000đồng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 09 giờ 00 phút ngày 22/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương).

4/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về