Bản án về tội môi giới mại dâm số 55/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 55/2021/HSST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST- HS ngày 25/02/2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị T H, sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai; nơi ĐKNKTT: Ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con không rõ cha và mẹ là Huỳnh Thị T; có chồng và 01 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 21/9/2020 và tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Huỳnh Thị T H và Lê Quang P là vợ chồng cùng kinh doanh quán café Diễm K tại khu phố 1A, phường A, thị xã T(nay là thành phố T), tỉnh Bình Dương. Quá trình kinh doanh, P và H tuyển các nhân viên nữ đến phụ quán và môi giới cho khách nam có nhu cầu mua dâm nhằm mục đích kiếm tiền hoa hồng. Mỗi tiếp viên đi bán dâm cho khách với giá 300.000 đồng/lần, P và H sẽ được hưởng 50.000 đồng. Sau khi thỏa thuận với khách có nhu cầu mua dâm, P sẽ chở tiếp viên đến nhà nghỉ để khách và tiếp viên thực hiện hành vi mua bán dâm với nhau.

Khoảng 14 giờ 30 phút đến 15 giờ, ngày 03/8/2014, các đối tượng Nguyễn Văn M, Nguyễn Quang T, Trần Minh T gọi điện thoại cho Lê Quang P (Tư) yêu cầu P môi giới tiếp viên để mua dâm thì P đồng ý. P hẹn các đối tượng trên đến nhà nghỉ ST địa chỉ tại số 105C/1 khu phố 1A, phường A, thị xã T(nay là thành phố T), tỉnh Bình Dương để P chở tiếp viên đến bán dâm. Sau đó P điều khiển xe môtô biển số 61D1-479.85 chở Trần Việt T, Thạch Thị Cẩm T, Mai Thị T đến nhà nghỉ ST để bán dâm. Trong đó, đối tượng M mua dâm với tiếp viên T tại phòng số 301, đối tượng Tr mua dâm với tiếp viên Tr tại phòng số 305 và đối tượng T mua dâm với tiếp viên T tại phòng số 309. Trong lúc các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại nhà nghỉ ST thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKS-TA ngày 13/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Huỳnh Thị T H về tội: “Môi giới mại dâm” theo Điểm d Khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng và đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Thị T H mức hình phạt từ 3 (ba) năm 3 (ba) tháng tù đến 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Môi giới mại dâm”.

Tại phiên Tòa bị cáo thống nhất với bản cáo trạng, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về phần hình phạt đối với bị cáo và không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Huỳnh Thị T H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 30 phút đến 15 giờ, ngày 03/8/2014, công an bắt quả tang Minh đang mua dâm với tiếp viên Thu tại phòng số 301, Trường đang mua dâm với tiếp viên Tr tại phòng số 305 và T đang mua dâm với tiếp viên T tại phòng số 309. Qua làm việc với những người nêu trên xác định P và H là vợ chồng cùng kinh doanh quán cà phê. Quá trình kinh doanh P và H tuyển các nhân viên nữ đến phụ quán và môi giới cho khách nam có nhu cầu mua dâm nhằm mục đích kiếm tiền hoa hồng. Mỗi tiếp viên đi bán dâm cho khách với giá 300.000 đồng/lần, P và H sẽ được hưởng 50.000 đồng. Sau khi thỏa thuận với khách có nhu cầu mua dâm, P sẽ chở tiếp viên đến nhà nghỉ để khách và tiếp viên thực hiện hành vi mua bán dâm với nhau.

Hành vi nhiều lần 3 (ba) lần làm trung gian cho người mua dâm và người bán dâm gặp nhau với mục đích mại dâm để hưởng lợi do bị cáo Huỳnh Thị T H thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội "Môi giới mại dâm” theo Điểm d Khoản 2 Điều 328 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo H là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến truyền thống, đạo đức dân tộc và những quy định về bảo vệ trật tự công cộng. Bị cáo nhận thức được hành vi môi giới mại dâm là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam tư lợi nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Trong quá trình điều tra bị cáo H đã bỏ trốn, phải truy nã đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi không có tình tiết tăng nặng.

+ Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do vậy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

Từ những nhận định nêu trên, xét thấy việc Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo H là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với các đối tượng T, M, N, T, T, Tr, T, T thực hiện hành vi mua bán dâm trong vụ án. Cơ quan Công an đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định pháp luật.

Đối với bà Nguyễn Thị H là chủ hộ kinh doanh nhà nghỉ ST và bà Đào Thị L là người quản lý nhà nghỉ để xảy ra hành vi mua bán dâm. Tuy nhiên qua điều tra xác định được bà H và bà L không biết các đối tượng trên vào nhà nghỉ để thực hiện hành vi mua bán dâm. Do vậy, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự với bà H và bà L là phù hợp.

Đối với hành vi phạm tội của bị can Lê Quang P và vật chứng trong vụ án đã được Tòa án nhân dân thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bình Dương đưa ra xét xử và tuyên xử lý trong bản án số 272/2015/HSST ngày 26/8/2015 nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d Khoản 2 Điều 328; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm Hình sự: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị T H phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Xử phạt: Huỳnh Thị T H 3 (ba) năm 3 (ba) tháng tù, thời hạn tù tình từ ngày 21/9/2020.

2. Về án phí: Bị cáo Huỳnh Thị T H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

428
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 55/2021/HSST

Số hiệu:55/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về