Bản án về tội môi giới mại dâm số 149/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 149/2021/HS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố H. Tòa án nhân dân quận H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 146/2021/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2020/XXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Phạm Ngọc T, sinh năm 1987; ĐKHKTT: phường Nguyễn Trãi, quận H, H; Chỗ ở: quận H, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Phạm Ngọc T , sinh năm: 1961; con bà Nguyễn Thị N , sinh năm: 1964; Vợ là Dương T B , sinh năm 1989 (đã ly hôn năm 2020); có 3 con (lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2011); tiền án, tiền sự: không.

*Nhân thân: Ngày 08/5/2008 bị Công an quận H xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Bị can bị bắt truy nã ngày 02/4/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố H. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia năm 2018, Phạm Ngọc T, Sinh năm (SN): 1987, thuê nhà ở số 45 khu đường tàu, tổ 9, phường P, quận H của bà Nguyễn Thị H, SN: 1949, trú tại: tổ 2 phường P, quận H để mở quán Cafe. Đầu năm 2019 T sử dụng quán của mình làm nơi hoạt động môi giới mại dâm. Ngày 29/3/2019, Bùi Thị T, SN: 1991, trú tại: tổ 7, phường K , H đến xin làm ở quán, T đồng ý và thỏa thuận giá bán dâm 300.000 đồng/1 lượt, tiền phòng 100.000 đồng gái bán dâm trả và được 100.000 đồng, còn T được hưởng 100.000 đồng.

Khong 00 giờ 03/4/2019, Phạm Khắc T, SN: 1986, trú tại: xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đi xe máy chở Ngô Văn H, SN: 1992, trú tại: xã Đông Huy, huyện Đ , tỉnh T đang đi ở khu vực đường tàu Ba La, thì có Nghiêm Thị L, SN: 1998 quê ở xã Hoàng Khai, huyện Y , tỉnh T là gái bán dâm đang ngồi quán nước của bà Nguyễn Thanh Thuỷ, SN: 1966 (HKTT: tổ 16, phường Kim Mã, quận Ba Đình) ở khu đường tàu Ba La, phường Phú La, H đi bộ qua đường Quốc lộ 6 (đối diện quán nước bà T) hỏi T và H là: “Anh có đi chơi không” (ý hỏi có mua dâm không). T và H đồng ý rồi thoả thuận giá mua dâm là 300.000 đồng/1người/lượt. Sau H hỏi: “Nhà còn nhân viên không” thì L bảo: “Có, xuống đây em lấy người cho”. Ngay sau đó, L quay lại quán của bà T mượn chiếc xe đạp điện của bà T đến dẫn T và H đi. Khi đến quán của Phạm Ngọc T (cách quán bà T khoảng 50m dọc đường tàu Ba La), L vào gặp T đang ngồi ở quán bảo cho 1 nhân viên (T hiểu ý là cho 1 nhân viên nữ đi bán dâm) và T thấy có 02 người đàn ông (đoán là khách mua dâm) đi một xe máy đứng cách đó một đoạn. T bảo L là cứ đi trước, anh chở nhân viên ra sau. Sau L dẫn T và H đi ra đường 21B đến nhà nghỉ “Sơn Quỳnh” ở số 3, tổ 10, phường Phú La, H do Cao Văn T, SN: 1983, trú tại: xã Vân Côn, huyện H, H làm chủ. Lúc này, T gọi cho T đang ở phòng trọ của bạn T ở gần đó bảo: “T ơi, ra đi khách” (ý nói đi bán dâm).

Sau T đi về và T đã lấy xe máy chở T đến nhà nghỉ Sơn Quỳnh, lúc này thấy L và 2 khách mua dâm đang ở nhà nghỉ, T để T ở lại và đi về luôn.

Tại nhà nghỉ Sơn Quỳnh, L nói với T, H cho em xin tiền 300.000 đồng/người cả tiền phòng nghỉ. Nghe vậy, H lấy 600.000 đồng ra đưa cho T, T cầm rồi đưa cho L 200.000 đồng, trả ông Nguyễn Hồng Q, SN: 1968, trú tại: tổ 5, phường Phú Lương, H (trông coi nhà nghỉ) 200.000 đồng, còn 200.000 đồng cất ở ví. Sau tất cả lên tầng 2 của nhà nghỉ, L và H vào phòng 201, T và T vào phòng 203 để quan hệ tình dục. Khoảng 00 giờ 15 phút cùng ngày 03/4/2019, khi L và H đang quan hệ tình dục, còn T và T đang chuẩn bị quan hệ tình dục với nhau thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an quận H kiểm tra, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng (phòng 201), 01 bao cao su chưa qua sử dụng (phòng 203). Ngoài ra, khi kiểm tra các đối tượng tự nguyện giao nộp tổng số tiền là 600.000 đồng (T 200.000 đồng; L 200.000 đồng và ông Nguyễn Hồng Q 200.000 đồng). Công an quận H đã đưa tất cả các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở để điều tra làm rõ.

Sau khi thực hiện vụ án, Phạm Ngọc T đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú, ngày 22/10/2019 Cơ quan điều tra Công an quận H ra quyết định truy nã đối với bị can T. Đến ngày 02/4/2021 bị can T đã bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố H bắt giữ tại phường Dương Đông, thành phố P , tỉnh K , sau giao cho Cơ quan điều tra Công an quận H xử lý.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên, trước đó Phạm Ngọc T còn khai đã vài lần môi giới cho Bùi Thị T đi bán dâm. Song T không rõ thời gian, địa điểm và khách mua dâm, T cũng không rõ. Ngoài lời khai của T và T không có tài liệu nào chứng minh, nên không đủ căn cứ kết luận xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 148/CT-VKS-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận H đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc T về tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Bị cáo Phạm Ngọc T thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

* Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc T phạm tội Môi giới mại dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc T từ 06 đến 09 tháng tù; Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an quận H và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Li khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng, biên bản phạm tội quả tang, tang vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Do hám lợi, đầu năm 2019 Phạm Ngọc T thuê nhà số 45 khu đường tàu Ba La, tổ 9, phường P, quận H mở quán Cafe, sau nhận gái bán dâm đến làm dịch vụ để đi bán dâm. Khoảng 00 giờ 03/4/2019, Nghiêm Thị L (gái bán dâm) đến quán của T bảo T bố trí cho 01 nhân viên đi bán dâm cùng L với 02 khách là Ngô Văn H và Nguyễn Khắc T. T đồng ý rồi đưa Bùi Thị T (nhân viên bán dâm của T) đến nhà nghỉ “Sơn Quỳnh” ở số 3, tổ 10, phường Phú La, quận H, H để bán dâm. Khoảng 00 giờ 15 phút cùng ngày, khi 02 đôi nam nữ đang và chuẩn bị quan hệ tình dục với nhau tại phòng 201, 203 của nhà nghỉ, thì bị Công an quận H phát hiện, bắt quả tang.

Với hành vi nhận Bùi Thị T đến làm nhân viên bán dâm, rồi dẫn dắt T đến nhà nghỉ Sơn Quỳnh để bán dâm cho 01 khách như đã nêu trên, thì Phạm Ngọc T đã phạm tội “Môi giới mại dâm” quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất , mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, ảnh hưởng sức khỏe con người và còn là nguyên nhân lây truyền bệnh xã hội, đặc biệt là bệnh HIV-AIDS, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo, cụ thể như sau:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy sẽ áp dụng mức hình phạt như đề xuất của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 bao cao su chưa qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 600.000 đồng vì liên quan đến hành vi phạm tội.

[4]. Về các vấn đề khác:

- Đối với Nghiêm Thị L là gái bán dâm, trước đó L khai làm dịch vụ bán dâm cho bà Nguyễn Thị T do người tên “Linh” quê ở Hòa Bình, không rõ lai lịch giới thiệu (bà T không thừa nhận), sau không làm nữa. Đêm mồng 02, rạng ngày 03/4/2019, khi có thêm khách L đã gọi cho Phạm Ngọc T bố trí 01 nhân viên để cùng L đi bán dâm. Theo nhận định của cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát quận H thì hành vi đó có dấu hiệu của tội “Môi giới mại dâm”. Hai cơ quan tố tụng đã xem xét nhân thân, động cơ mục đích (không hưởng lợi) và tính chất hành vi của L, thấy chưa đủ căn cứ xử lý hình sự. Tuy nhiên các cơ quan tố tụng này cũng không có biện pháp xử lý L là chưa đúng, cần kiến nghị cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát quận H xử lý theo thẩm quyền.

- Đối với Ngô Văn H, Phạm Khắc T, Bùi Thị T và Cao Văn T, là chủ cơ sở kinh doanh lưu trú nhà nghỉ “Sơn Quỳnh” và là những người mà ngày 03/4/2019 có hành vi vi phạm (mua, bán dâm, cho thuê lưu trú không đúng quy định để xảy ra hoạt động mại dâm). Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an quận H, không tiến hành thủ tục xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Đến nay đã quá 02 năm (hết thời hiệu xử phạt), nên không có căn cứ xử lý. Cần nêu ra để rút kinh nghiệm đối với các cơ quan tố tụng của quận H.

- Đối với bà Nguyễn Thị H, là chủ nhà số 45, tổ 9, phường P, quận H, là người cho Phạm Ngọc T thuê nhà; việc T nhà sử dụng để kinh doanh dịch vụ gái bán dâm, thì bà H không được biết. Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[5]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sơ thẩm.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định các Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

dâm”.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc T phạm tội “Môi giới mại

2. Về điều khoản áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su chưa qua sử dụng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 600.000 đồng.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021 giữa cơ quan Cảnh sát Điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận H).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 149/2021/HS-ST

Số hiệu:149/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về