Bản án về tội môi giới mại dâm số 31/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

 Ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2021/TLST- HS Ngày 29 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST- HS Ngày 01 tháng 7 năm 2021, đối với bị cáo:

L.Th.Ng, sinh năm 1991. ĐKHK: Tổ dân phố An Định, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; Hiện đang tạm trú: thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông L.T.Ng và bà Ng.Th.H; chồng: Chưa có; có 01 con sinh năm 2012; gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Chị L.Th.L, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn Lập Đinh, xã Ngọc Thanh, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Anh B.Q.Th, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn An Điềm, xã Định Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

- Chị Ng.Th.L1, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn Tràng Kỹ, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

- Ông V.Đ.S, sinh năm 1960.

- Ông Nguyễn Đình Nh, sinh năm 1954.

Đều có địa chỉ: Thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

L.Th.Ng là chủ quán cafe Nhớ ở thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Khoảng giữa tháng 4 năm 2021, Ng thuê L.Th.L làm nhân viên bưng bê cafe tại quán. Do muốn thu lời bất chính nên Ng đã bàn bạc và thống nhất với Linh nếu khách đến quán uống nước mà có nhu cầu mua dâm thì Ng sẽ dẫn dắt để Linh đi bán dâm và trực tiếp thu tiền của khách với số tiền 400.000đồng một lần mua dâm. Số tiền thu được trong mỗi lần bán dâm sẽ được chia cho Ng 160.000đồng, Linh được hưởng 170.000đồng, còn 70.000đồng trả tiền thuê phòng trong nhà nghỉ. Khoảng 21 giờ Ngày 27/4/2021 có hai thanh niên là Vũ Trọng Minh cùng với B.Q.Th đến quán cafe Nhớ của Ng uống nước. Tại quán Minh trực tiếp gặp Ng và đặt vấn đề về việc mua dâm, Ng đồng ý và bảo Minh phải trả số tiền 400.000đồng một lần mua dâm (bao gồm cả tiền phòng nghỉ). Sau khi thỏa Th xong, Ng bảo Linh đưa Minh sang nhà nghỉ để bán dâm, còn Th ngồi uống nước tại quán. Linh đưa Minh sang nhà nghỉ Ánh D (ở cùng thôn Quý Dương) gặp chị Ng.Th.L1 quản lý nhà nghỉ Ánh Dương để thuê phòng. Tại nhà nghỉ Ánh Dương, Minh trả cho Linh 400.000đồng, Linh trả cho chị L1 70.000đồng tiền phòng nghỉ, rồi cả hai cùng lên phòng số 205 thực hiện hành vi mua bán dâm. Do nghi ngờ mua bán dâm nên chị L1 đã trình báo với Công an huyện Cẩm Giàng. Đến 21 giờ 20 phút cùng Ngày, khi Linh đang bán dâm cho Minh tại phòng số 205 nhà nghỉ Ánh Dương thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Giàng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su màu trắng có in chữ Doctor đã bóc xé và quản lý số tiền 330.000đồng của Linh và 70.000đồng do chị L1 tự nguyện giao nộp.

Ngày 29/4/2021, L.Th.Ng đến Công an huyện Cẩm Giàng đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS Ngày 26/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng truy tố bị cáo L.Th.Ng về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng thực hành quyền công tố, trình bầy luận tội: Giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo L.Th.Ng phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo L.Th.Ng từ 07 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 14 đến 20 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo L.Th.Ng cho UBND xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo tạm trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor đã bị xé rách; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 400.000đồng.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo L.Th.Ng phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng trong phiên tòa: Bị cáo xác định hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Giàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản vi phạm hành chính và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút Ngày 27/4/2021, tại quán cà phê Nhớ ở thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương do L.Th.Ng làm chủ, L.Th.Ng đã có hành vi làm trung gian môi giới, dẫn dắt để L.Th.L bán dâm cho Vũ Trọng Minh nhằm thu lời bất chính. Đến 21 giờ 20 phút cùng Ngày, khi Linh và Minh đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng 205 nhà nghỉ Ánh Dương (cùng ở thôn Quý Dương) thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Giàng kiểm tra, phát hiện, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và là một trong các nguyên nhân lây căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và các bệnh xã hội khác, làm suy thoái nếp sống văn hóa, gây mất trật tự trị an trên địa bàn xã Tân Trường. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo nhận thức được hành vi dẫn dắt môi giới để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ vụ lợi muốn thu lợi bất chính một cách nhanh chóng, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được viết tắt TNHS): Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS. Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện đến cơ quan Công an huyện đầu thú. Đó là những tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo: Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng; bị cáo có khả năng tự cải tạo tại địa phương không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nên không nhất thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội, biết tôn trọng và chấp hành pháp luật.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng trong vụ án:

- Đối với 01vỏ bao cao su màu trắng có in chữ Doctor đã bóc xé và 01 bao cao su đã qua sử dụng đều được niêm phong trong một phong bì đã được dán giấy niêm phong có chữ ký của những người tham gia. Xác định đây là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội không còn giá trị nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

- Số tiền 330.000đồng do L.Th.L giao nộp là tiền các đối tượng sử dụng vào việc mua bán dâm và số tiền 70.000đồng do chị Ng.Th.L1 giao nộp là tiền các đối tượng thuê phòng nghỉ. Đây là số tiền phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6]. Các vấn đề khác:

- Đối với L.Th.L có hành vi bán dâm, Ngày 28/5/2021 Công an huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ- XPHC là phù hợp. Đối với đối tượng mua dâm tự khai tên Vũ Trọng Minh, quá trình làm việc lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn. Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Giàng tiến hành xác minh tại địa phương như theo lời khai của Minh cung cấp nhưng không có tên và địa chỉ cư trú của Minh đã khai, không xác định được nên không có căn cứ xử lý.

- Anh B.Q.Th đi cùng Minh đến quán cà phê Nhớ nhưng không tham gia mua dâm nên không có căn cứ xử lý.

- Ông Ng.Đ.Nhlà người cho bị cáo Ng thuê nhà để kinh doanh mở quán cà phê Nhớ nhưng không biết việc bị cáo Ng thực hiện hành vi môi giới mại dâm tại quán nên không có căn cứ xử lý.

- Đối với chị Ng.Th.L1 là người quản lý nhà nghỉ Ánh Dương vào Ngày 27/4/2021, sau khi cho Linh thuê phòng, do thấy nghi ngờ có việc mua bán dâm tại nhà nghỉ nên chị L1 đã trình báo Cơ quan Công an để làm rõ hành vi mua, bán dâm của Linh và Minh. Ông V.Đ.S chủ nhà nghỉ Ánh Dương không biết việc Linh và Minh thuê phòng để thực hiện việc mua dâm nên không có căn cứ xử lý. Nhà nghỉ Ánh Dương thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý an ninh, trật tự đối với Ngnh nghề kinh doanh có điều kiện.

[7]. Về biện pháp ngăn chặn: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo L.Th.Ng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo L.Th.Ng phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Xử phạt: Bị cáo L.Th.Ng 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng, tính từ Ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Giao bị cáo L.Th.Ng cho UBND xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo tạm trú quản lý giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo L.Th.Ng thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01vỏ bao cao su màu trắng có in chữ Doctor đã bóc xé và 01 bao cao su đã qua sử dụng (đều được niêm phong trong một phong bì đã được dán giấy niêm phong có chữ ký của những người tham gia).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đồng (trong đó một bì thư đựng số tiền 330.000đồng được niêm phong có chữ ký của những người tham niêm phong và một bì thư đựng số tiền 70.000đồng được niêm phong có chữ ký của những người tham niêm phong).

Số vật chứng trên có tình trạng và đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện Cẩm Giàng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Giàng Ngày 12-7-2021.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/216/UBTVQH 14 Ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo L.Th.Ng phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 Ngày kể từ Ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về