TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 53/2022/HSPT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2022/TLPT-HS ngày 20 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Thị Thu P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HSST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1167/2022/QĐXXPT-HS ngày 01 tháng 03 năm 2022.
Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Thị Thu P, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1979 tại Quảng Trị; nơi cư trú: tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trọng H, sinh năm 1955 (đã chết), con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1958 hiện trú tại tỉnh Quảng Trị; anh chị em ruột: Không. Chồng Phan Vương V, sinh năm 1974, hiện sống tại Quảng Trị (chồng thứ 2); có 02 con, lớn sinh 2005, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 15/4/2021 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. Theo lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:- Anh Đặng Văn Q, sinh năm 1965; Trú tại: tỉnh Quảng Bình, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Viết K - Công ty Luật TNHH MTV B thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa năm 2020, anh Đặng Văn Q thông qua các mối quan hệ xã hội, quen biết với Phạm Thị Thu P. Qua nói chuyện, anh Q có nói cho P biết việc có bạn là anh Phạm Văn X có thửa đất trồng cây lâu năm tại xã B, thành phố Đ muốn chuyển đổi mục đích sử dụng một phần sang đất ở, anh Q nhờ P xem có giúp được không. Do đang lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, làm ăn thua lỗ, nợ nần nhiều nên Phạm Thị Thu P nảy sinh ý định lừa đảo anh Q để chiếm đoạt tài sản. P nói dối với anh Q là bản thân có quan hệ quen biết với nhiều người có thẩm quyền tại tỉnh Quảng Bình và chắc chắn sẽ chuyển đổi được mục đích sử dụng đất, từ đất vườn sang đất ở giúp cho anh Q. Anh Đặng Văn Q tin tưởng nên nhờ P chuyển mục đích sử dụng và tách thửa đất trên thành hai thửa mang tên anh Q và vợ chồng anh Phạm Văn X, vì anh X đồng ý cho anh Q một phần thửa đất nếu anh Q giúp chuyển đổi mục đích sử dụng đất. P nói với anh Q toàn bộ số tiền phải nộp để đóng thuế và lệ phí đất là 1.300.000. 000 đồng, anh Q đồng ý và về chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ có liên quan rồi đi vào tỉnh Quảng Trị đưa cho P.
Từ ngày 18 đến ngày 23/06/2020, Phạm Thị Thu P nhiều lần gọi điện thoại cho anh Đặng Văn Q yêu cầu chuyển tiền vào để P đưa cho “xếp” lo việc, anh Q đồng ý và đã 3 lần chuyển tiền vào tài khoản số 040032778005 của p mở tại Ngân hàng TMCP s chi nhánh Quảng Trị (S), với tổng số tiền là 250.000. 000 đồng.
Để tạo lòng tin cho anh Đặng Văn Q, Phạm Thị Thu P vào mạng xã hội Zalo tìm người làm giả giấy “Thông báo nộp thuế nhà đất” của Chi cục Thuế thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có một người không quen biết sử dụng tài khoản Zalo tên “Q” nhận làm giả với giá 50.000.000 đồng. Đối tượng sử dụng tài khoản Zalo tên “Q” yêu cầu P để tiền mặt trong hộp giấy bên ngoài ghi “Q” và số điện thoại 0367308485 rồi gửi xe khách Bắc - Nam đến bến xe Mỹ Đình; ngày hôm sau, đối tượng trên gửi giấy Thông báo nộp thuế nhà đất giả cho P thông qua xe khách Bắc-Nam. Sau đó, P chụp ảnh giấy Thông báo nộp thuế gửi qua Zalo cho anh Q và yêu cầu anh Q chuyển thêm tiền. Ngày 06/7/2020 anh Q đã chuyển cho P số tiền 139.000.000 đồng để đóng thuế nhà đất.
Đầu năm 2021, anh Đặng Văn Q đến nhà ông Nguyễn Hữu K tại Tổ dân phố 2 P X, phường B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình chơi thì gặp chị Nguyễn Thị H (con gái ông K). Anh Q rủ chị H góp tiền làm sổ đỏ cho thửa đất của mình và được hưởng lợi một phần trong đó sau khi làm được, chị H đồng ý và đặt cọc trước cho anh Q số tiền 600.000.000 đồng, anh Q lấy 40.000.000 đồng, còn 560.000. 000 đồng anh Q nhờ ông K chuyển vào tài khoản số 040032778005 của Phạm Thị Thu P để nộp thuế đất. Sau đó, Phạm Thị Thu P nhiều lần gọi điện thoại cho anh Q nói thiếu tiền nộp thuế nên ngày 05/02/2021 anh Q chuyển tiền vào tài khoản của P 22.000.000 đồng; ngày 19/3/2021, anh Q đến gặp chị H mượn 100.000.000 đồng và nhờ chị H chuyển tiền vào tài khoản của P; ngày 02/4/2021 anh Q chuyển tiếp cho P số tiền 100.000.000 đồng. Tổng số tiền anh Đặng Văn Q đã chuyển cho Phạm Thị Thu P là 1.171.000.000 đồng.
Khoảng cuối tháng 03/2021, thấy anh Đặng Văn Q nhiều lần gọi điện thoại thúc giục lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như đã hẹn, lo sợ bị anh Q phát hiện hành vi lừa đảo của mình nên Phạm Thị Thu P lên mạng xã hội Zalo tìm người làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có một người không quen biết sử dụng tài khoản Zalo tên “N” nhận làm giả với giá 20.000. 000 đồng. Đối tượng trên yêu cầu P chuyển trước 9.000.000 đồng vào tài khoản số 070032887250 mở tại Ngân hàng S. Đến ngày 12/4/2021 thì P nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả với thông tin như P đã cung cấp, bên ngoài phong bì ghi “Shop sim số đẹp” và số điện thoại 0819560827.
Ngày 14/4/2021, P hẹn gặp anh Đặng Văn Q tại một quán cà phê thuộc phường Đ, thành phố Đ để giao cho anh Q một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR785550, mang tên Đặng Văn Q, sinh năm 1965, địa chỉ thường trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp ngày 01/4/2021, thì bị Công an Đ bắt quả tang.
Quá trình khám xét chỗ ở của Phạm Thị Thu P tại tỉnh Quảng Trị, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CK 785228, mang tên Phạm Văn X, sinh năm 1966, CMND: 190896889, trú tại xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp năm 2021; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CK 785226, mang tên Đặng Văn Q, sinh năm 1965, địa chỉ thường trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp năm 2021; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CK 785543 mang tên Phạm Văn X, sinh năm 1966, CMND: 190896889 và bà Võ Thị T, sinh năm 1971, CMND số: 194383332, địa chỉ thường trú: xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp ngày 01/4/2021 và 01 giấy “Thông báo nộp thuế nhà đất lần 1” của Chi cục Thuế thành phố Đ tỉnh Quảng Bình đề ngày 04/07/2020.
Ngày 15/4/2021, Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình có Kết luận giám định số 539/PC09-GĐ, kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 785550 ngày 01/4/2021 là giả.
Ngày 27/5/2021, Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình có Kết luận giám định số 718/PC09-GĐ, kết luận: các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CK 785226, CR 785550, CK 785543 và và giấy Thông báo nộp thuế nhà đất lần 1 đều là giả.
Ngày 14/4/2021, Văn phòng đất đai tỉnh Quảng Bình có Công văn thông báo không có hồ sơ lưu trữ thông tin về việc thực hiện thủ tục hành chính cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CR 785550 đối với anh Đặng Văn Q, sinh năm 1965, trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HSST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Thu P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu P 11 (mười một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu P 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo Phạm Thị Thu P phải chấp hành là 13 (mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 15/4/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/12/2021 bị cáo Phạm Thị Thu P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Hoàn cảnh gia đình có mẹ già yếu, không có thu nhập; hai con còn nhỏ chưa đến tuổi trưởng thành; bản thân đã ly hôn 07 năm qua; bố mất sớm, nhà không có anh chị em; bản thân có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự; gia đình có công với cách mạng; đã bán hết tài sản và mượn thêm tiền để bồi thường cho bị hại; nhưng hình phạt 13 năm tù là quá cao so với hành vi phạm tội; bị cáo xin giảm một phần hình phạt để sớm trở về với gia đình hòa nhập xã hội.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo P vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, vì xử bị cáo 13 năm tù là quá nặng. Luật sư Lê Viết Kiều bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Bị cáo P phạm tội nguyên nhân do hoàn cảnh gia đình gây ra; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ chưa được cấp sơ thẩm áp dụng như: Phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự; có nhiều thành tích trong việc đóng góp tiền và vật chất cho người nghèo tại địa phương; do vậy đề nghị HĐXX áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo có hành vi nguy hiểm cho xã hội; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo; bồi thường thiệt hại; nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù cho 02 tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” là có căn cứ pháp luật, không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị HĐXX y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thị Thu P thừa nhận là có hành vi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” như án sơ thẩm buộc tội, phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, của những người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, nên đã có đủ căn cứ xác định: Trong thời gian từ tháng 06 năm 2020 cho đến tháng 04 năm 2021, lợi dụng sự quen biết với anh Đặng Văn Q có bạn là anh Phạm Văn X và chị Nguyễn Thị H có nhu cầu cần người chuyển mục đích sử dụng đất ở từ đất nông nghiệp tại thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; bị cáo P không thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật, mà thuê người làm giả các giấy tờ như “Thông báo nộp thuế nhà đất”, “Giấy CNQSDĐ” để anh Q, anh X tin tưởng chuyển cho bị cáo nhiều lần với số tiền 1.171.000.000đ, bị cáo chiếm đoạt tiêu xài cá nhân, sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo mới trả lại được 200.000.000đ. Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quy kết bị cáo Phạm Thị Thu P phạm 02 tội. Đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS với khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, án sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải theo điểm b, s khoản 1 và một số tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51; áp dụng Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo 11 năm tù là dưới khung hình phạt. Đối với tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 BLHS với khung hình phạt tù từ 02 năm đến 05 năm, án sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 và một số tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo 02 năm tù là khởi điểm khung hình phạt; là phù hợp không nặng.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Thị Thu P, HĐXX thấy rằng: Bị cáo P phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và cùng lúc phạm nhiều tội; tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tất cả những tình tiết giảm nhẹ như bị cáo trình bày tại đơn kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới; những tình tiết giảm nhẹ luật sư nêu ra đã được cấp sơ thẩm áp dụng; riêng đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 là không đúng, vì bị cáo phạm tội lần đầu nhưng không thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, HĐXX thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên là không có cơ sở xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bào chữa của luật sư xin giảm nhẹ hình phạt.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Thu P xin giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Thu P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu P 11 (mười một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu P 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo Phạm Thị Thu P phải chấp hành là 13 (mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 15/4/2021.
Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm xét xử không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
2/ Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Thị Thu P phải chịu 200.000đ
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (21/3/2022).
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức số 53/2022/HSPT
Số hiệu: | 53/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về