Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 804/2019/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 804/2019/HS-PT NGÀY 18/12/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án Hình sự thụ lý số 863/2019/TLPT- HS ngày 31 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

1. Bị cáo có kháng cáo: Hoàng Văn T, sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT: Thôn Xuân L, xã D, huyện S, thành phố N; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và con bà Phùng Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam từ ngày 11/6/2018 đến ngày 06/7/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2019 đến nay; Có mặt.

2. Trong vụ án còn có người bị hại anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1989; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Ngọc L, sinh năm 1982; Anh Đỗ Trọng T, sinh năm 1971; Bà Phùng Thị L, sinh năm 1963 không có kháng cáo, không bị kháng nghị. Đều vắng mặt.

3. Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định của Tòa án: Bà Nguyễn Thị T, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Đăng Hằng - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh; Có mặt.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/5/2017, Nguyễn Văn Q cùng đồng phạm thực hiện hành vi trộm cắp màn hình điện thoại di động tại Công ty SamSung. Sau khi bị Công an tỉnh Bắc Ninh triệu tập lên làm việc, sợ bị bắt nên Q không đến làm việc theo yêu cầu. Do có quen biết Đào Ngọc L, Q kể cho L nghe về việc mình đang bị điều tra về hành vi trộm cắp tài sản, nhờ L tìm người lo hộ. L nói với Q để L hỏi giúp. Do có quen biết với Hoàng Văn T, biết Tú làm ở Công an thành phố N có thể lo được cho Q, nên L nhờ Tú. Mặc dù không quen biết ai và không có khả năng lo cho Q, nhưng Tú vẫn nói với L có thể lo cho Q được, chi phí hết 300 triệu đồng. Tin tưởng Tú, nên L báo lại cho Q và Q đồng ý.

Đầu tháng 6/2017, Q cùng L và Nguyễn Văn C mang 300 triệu đồng đến một quán Cà phê, đối diện với Công viên Hoà Bình ở Nam Thăng Long - Hà Nội gặp Tú. Lúc đó, Tú có đưa cho Q xem thẻ ngành Công an, ngồi nói chuyện với nhau một lúc thì Đỗ Trọng T đến (theo Tú giới thiệu là người có thể giúp cho Q giải quyết việc trộm cắp). Tại buổi gặp hôm đó, Q đã đưa cho Tú để Tú đưa cho T số tiền 300 triệu đồng. Hai ngày sau, T hẹn gặp Q và trả lời không giúp được Q. Tuy nhiên, do đang cần tiền, nên T đã vay lại của Q 150 triệu đồng và được Q đồng ý. Sau đó, T nhờ vợ là chị Phạm Thị L đưa trả cho Q 150 triệu đồng, còn nợ lại 150 triệu đồng.

Sau khi biết T không giúp được Q, Tú tiếp tục nói với L và Q là có ông Trần Văn Phong, sinh năm 1958 hay 1960 nhà ở Cầu Giấy - Hà Nội (Tú không nhớ địa chỉ chính xác), có thể lo cho Q được trắng án nhưng phải chi phí hết 700 triệu đồng. Tin tưởng Tú, Q đồng ý. Sau đó, Q đã 05 lần đưa tiền cho L để L đưa cho Tú tổng số 650 triệu đồng, trong đó có ba lần Q đưa cho L 450 triệu đồng và đi cùng L ra một quán cà phê ở Hà Nội gặp Tú đưa tiền cho Tú. Khi đến nơi, Q ở ngoài xe và bảo L cầm tiền vào trong quán Cà phê đưa cho Tú. Còn 200 triệu đồng, Q đưa cho L hai lần, một lần 150 triệu đồng tại nhà L, một lần 50 triệu đồng tại gần cầu vượt Yên Phong. Số tiền này, L đã đưa cho Tú tại nhà L và tại gần cầu vượt Yên Phong. Ngoài số tiền trên, Q còn trực tiếp đưa cho Tú 393 triệu đồng (Trong các lần đưa tiền các bên đều không nhớ được thời gian đưa, địa điểm cụ thể mà chỉ nhớ được 2 lần tại nhà L ở xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong và gần cầu vượt Yên Phong, các lần còn lại các bên đều không nhớ địa điểm cụ thể). Sau khi nhận được tổng số tiền 1.043.000.000đồng của Q, Tú có đưa Q đến gặp ông Phong một lần, nhưng Q không biết nhân thân lại lịch và địa chỉ cụ thể của ông Phong. Sau đó, Q vẫn bị các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh khởi tố, truy tố và xét xử về tội "Trộm cắp tài sản". Do vậy, Q gặp Tú đòi lại tiền, do không có tiền trả lại Q nên khoảng tháng 01/2018, Tú đưa cho L 01 viên đá màu xanh ngọc hình tròn, đường kính 4,2cm để trả cho Q, sau đó không trả tiền nữa. Đến ngày 23/01/2018, Q gửi đơn tố cáo Tú đến Cơ quan điều tra đề nghị giải quyết. Sau khi Q có đơn trình báo, Tú trả cho Q thêm 100 triệu đồng. Ngày 22/3/2018, Q giao nộp viên đá mà Tú đưa cho Cơ quan điều tra. Ngày 01/6/2018, Cơ quan điều tra tiến hành làm việc với Q, L và Tú thì ba người thỏa thuận với nhau viên đá trên có trị giá 300 triệu đồng và đồng ý để Tú trả vào khoản tiền 393 triệu đồng mà Tú đã nhận của Q.

Ngày 19/5/2018, Đào Ngọc L giao nộp 02 đĩa DVD-R, trong đó có nội dung ghi lại cuộc nói chuyện điện thoại giữa L với Tú, liên quan đến việc nhận tiền từ L để chạy án cho Nguyễn Văn Q. Cơ quan điều tra tiến hành thể chế băng ghi âm, xác định nội dung cuộc điện thoại giữa L và Tú, trong đó L nói Tú nhận của Q gần tỷ bạc, Tú không có ý kiến gì về số tiền đã nhận và bảo L nói với Q bảo với nó để trả dần mỗi lần 150 đến 200 triệu đồng, sau Tú hoàn lại… Ngày 11/6/2018, Tú bị bắt theo lệnh bắt bị can để tạm giam và Tú tự nguyện nộp lại 193 triệu đồng để trả cho Q. Trong thời gian Tú bị tạm giam, bà Phùng Thị Luân (là mẹ đẻ của Tú) đã trả lại cho Q 450 triệu đồng để khắc phục hậu quả cho Tú. Bản thân Tú đồng ý với việc bà Luân trả số tiền 450 triệu đồng trên cho Q.

Ngày 31/5/2018, Đỗ Trọng T đến làm việc và tự nguyện nộp lại Cơ quan điều tra số tiền 150 triệu đồng để trả cho Q.

Ngày 21/6/2018, Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho Q số tiền 343 triệu đồng và 01 viên đá màu xanh ngọc nêu trên. Đến nay, Q đã nhận đủ số tiên của mình, không có yêu cầu gì về việc bồi thường và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Tú.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn T chỉ thừa nhận đã nhận của Q 393 triệu đồng, nhận của L 200 triệu đồng để lo cho Q được trắng án. Toàn bộ số tiền đã nhận, Tú khai đưa cho ông Phong 150 triệu đồng (nhưng Tú không có căn cứ gì), số còn lại Tú sử dụng chi tiêu cá nhân hết Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2019/HSST ngày 23/9/2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/5/2019, nhưng được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 11/6/2018 đến ngày 06/7/2018. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyềt định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/10/2019, bị cáo Hoàng Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Hoàng Văn T giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tú xác định chỉ nhận của Q 393.000.000 đồng, nhận của L 200.000.000 đồng để lo cho Q được trắng án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo Hoàng Văn T bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn T có quan điểm: Việc xử phạt bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cần phải xác định cụ thể số tiền bị cáo đã chiếm đoạt, trên cơ sở này mới xác định chính xác điểm, khoản mà hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Việc cấp sơ thẩm căn cứ nội dung cuộc gọi ghi âm, lời khai một số người làm chứng, xử phạt bị cáo theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là chưa đủ căn cứ, trong khi đó lời khai của bị cáo xác định chỉ nhận của Q 393.000.000 đồng, nhận của L 200.000.000 đồng để lo cho Q được trắng án. Về hình phạt, đề nghị xem xét bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, quá trình điều tra thành khẩn nhận tội, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự và đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2] Về hành vi phạm tội: Mặc dù quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T chỉ thừa nhận đã nhận của Q 393.000.000 đồng, nhận của L 200.000.000 đồng để lo cho Nguyễn Văn Q được trắng án. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của người bị hại Q; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đào Ngọc L, anh Đỗ Trọng T, bà Phùng Thị Luân; các biên bản đối chất giữa Q và Tú, Q và L, Tú và L; lời khai người làm chứng; biên bản thể chế nội dung từ âm thanh sang văn bản cuộc nói chuyện giữa L và Tú; vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Mặc dù không quen biết ai, không có khả năng “chạy án”, nhưng Hoàng Văn T vẫn hứa hẹn sẽ lo được cho Nguyễn Văn Q không bị xử lý trong vụ án trộm cắp màn hình điện thoại, tại công ty Sam Sung mà Q có tham gia. Từ tháng 06/2017 đến tháng 7/2017, Tú đã nhận của Q tổng số 1.043.000.000 đồng. Tuy nhiên sau khi nhận tiền, Tú không làm gì giúp cho Q như đã hứa. Bản thân Q đã bị các cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”. Do không thực hiện được như hứa hẹn, trước khi anh Q làm đơn tố giác, Tú thông qua Đào Ngọc L trả cho anh Q 01 viên đá màu xanh ngọc hình tròn, đường kính 4,2cm hai bên thỏa thuận trị giá 300.000.000đồng, còn số tiền 743.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt. Mặc dù bị cáo có hành vi gian dối từ trước, nhưng sau đó bị cáo đã trả lại cho người bị hại một phần tài sản. Do vậy, cấp sơ thẩm không xem xét toàn bộ số tiền đã nhận 1.043.000.000 đồng, chỉ xem xét hành vi chiếm đoạt của bị cáo đối với số tiền còn lại 743.000.000 đồng là có lợi cho bị cáo. Với hành vi nêu trên trên, bị cáo Hoàng Văn T đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên hứa hẹn “chạy án” để nhận tiền, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Mặc dù, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã tích cực khắc phục thiệt hại, trả lại cho người bị hại toàn bộ số tiền chiếm đoạt, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, với số lượng tiền mà bị cáo lừa đảo chiếm đoạt rất lớn. Vì vậy, việc cách L bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, tình hình đấu tranh phòng chống với loại tội này, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày từ trước đến nay không vi phạm pháp luật gì; nhân thân không có tiền án, tiền sự; gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Xét thấy, những căn cứ bị cáo đưa ra đã được cấp sơ thẩm cân nhắc, xem xét. Ngoài tình tiết giảm nhẹ đã áp dụng, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Mặt khác, như đã nêu trên với số lượng tiền mà bị cáo chiếm đoạt rất lớn, mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù là nhẹ đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo không có cơ sở, nên không được chấp nhận; Quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là có cơ sở, được chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về Quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T.

2. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2019/HSST ngày 23/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 07(bảy) năm 06(sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2019, nhưng được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 11/6/2018 đến ngày 06/7/2018.

3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn T phải nộp 200.000đ(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 804/2019/HS-PT

Số hiệu:804/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về