Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 69/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20/01/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố  Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê ThA H – Sinh năm 1991; Nơi cư trú: Phố T, phường N, Thành phố T, tỉnh  Thanh Hoá; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê ThA H và bà: Trịnh Thị H; Vợ: Mai Mỹ L (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Năm 2009 bị công an Thành phố T xử phạt vi phạm Hnh chính về Hnh vi “đánh người gây thương tích” (đã nộp xong tiền phạt) Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa) Bị hại: A Đàm Tiến A - sinh năm 1997 (vắng mặt) Trú tại: SN 190 Lý Nhân Tông, phường Đông Thọ, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá.

Người làm chứng:

1. A Hoàng THnh Đ – SN 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Phố K, phường T, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá.

2. Anh Bùi Tiến D – Sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Phố B, phường N, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá.

3. Anh Chu Thế L – sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Phố N, phường T, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá.

4. Anh Hoàng Ngọc Q – sinh năm 1998 (vắng mặt) Địa chỉ: Phố N, phường L, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá.

5. Chị Lê Thị Thúy H – sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Phố N, phường Đ, TP  Thanh Hoá, tỉnh  Thanh Hoá

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền chuộc lại tài sản và chi tiêu cá nhân, Lê ThA H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản, nên khoảng 23 giờ ngày 12/3/2021 H gọi điện cho Anh Đàm Tiến A nói cần mượn xe để đi giải quyết công việc, Anh Tiến A tin tưởng H nói thật nên đã đến khu vực trạm bơm phường Đ, Tp  Thanh Hoá cho H mượn chiếc xe mô tô BKS 36B6 – 721.35 nhưng không giao đăng ký xe cho H. Đến ngày 13/3/2021 H điều khiển xe mô tô đã mượn của anh Tiến A đến phòng trọ của anh Hoàng Ngọc Q, khi đó tại phòng trọ của Q có anh Chu Thế L và anh Bùi Tiến L. Tại đây H gọi điện cho A Hoàng THnh Đ nhờ Đ đến nH Qn để đi cầm cố xe mô tô của H, Đ đồng ý. Khi Đ đến nH Qn thì H bảo anh L đi cùng Đ để lấy tiền chuộc điện thoại cho Qn (do trước đó Qn đồng ý cho H mượn điện thoại để cầm cố, H đã nhờ L cầm cố điện thoại của Qn) thì L rủ thêm anh L đi cùng. Đ, L, L đến cửa Hng cầm đồ H Thủy tại địa chỉ 100, phường Đông Hương, Tp  Thanh Hoá, L và L đứng ngoài, còn Đ vào trong cầm cố xe mô tô lấy 12.000.000đ và quay ra đưa cả 12.000.000đ cho L. L cầm tiền đến nH A Tâm tít ở phường Điện Biên, Tp  Thanh Hoá trả số tiền 10.000.000đ cho A Tâm và chuộc điện thoại Iphone 11 Promax màu đen về đưa điện thoại và số tiền 2.000.000đ còn lại cho H. H đã trả điện thoại cho Qn, còn số tiền 2.000.000đ H đã chi tiêu cá nhân hết.

Do không thấy H trả xe như đã hẹn, anh Đàm Tiến A nhiều lần liên lạc với H nhưng không được. Ngày 14/3/2021 H nhắn tin thông báo cho Tiến A là đã cầm cố chiếc xe mô tô BKS 36 B6 – 721.35 lấy 12.000.000 đồng. Nên anh Tiến A đã đến Cơ quan công an báo cáo sự việc.

Tại cơ quan điều tra Lê ThA H đã khai nhận toàn bộ Hnh vi phạm tội của mình. Tại kết luận định giá số 88/KL – HĐ ĐGTS ngày 24/6/2021 của hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND Tp  Thanh Hoá định giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 36 B6 – 721.35 là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), Cơ quan CSĐT Công an Tp  Thanh Hoá đã trả lại cho chủ tài sản hợp pháp là anh Đàm Tiến A, phía bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Lê ThA H đã trả số tiền 12 triệu đồng cho anh Hoàng THnh Đ để anh Đ trả lại cho chị Lê Thị Thúy H. Chị H đã nhận đầy đủ và không có yêu cầu gì.

Đối với chị Lê Thị Thúy H đã cho Đ cầm cố xe không có giấy tờ nên Cơ quan công an Thành phố  Thanh Hoá đã xử phạt vi phạm Hnh chính về Hnh vi “Nhận cầm cố tài sản mà theo quy định tài sản đó pH có giấy tờ sở hữu nhưng không có các loại giấy tờ đó” Đối với Hoàng THnh Đ, Bùi Tiến L do không biết tài sản cầm cố do phạm tội mà có và cũng không được hưởng lợi ích gì từ việc cầm cố nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Chu Thế L là người đi theo Đ, L nhưng L không biết sự việc nên không phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố  Thanh Hoá đã truy tố Lê ThA H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS;

Tại phiên tòa, đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174 BLHS, điểm b, i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38. Về hình phạt đại diện VKS đề nghị xử phạt Lê ThA H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Ngoài ra VKS còn đề nghị bị cáo pH chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ Hnh vi phạm tội, không trA luận gì với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hnh vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến Hnh tố tụng trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì.

[2] Về Hnh vi phạm tội:

Do cần tiền chuộc lại tài sản và tiêu sài cá nhân nên khoảng 23 giờ ngày 12/3/2021, Lê ThA H lợi dụng sự tin tưởng của A Đàm Tiến A hỏi mượn chiếc xe máy Yamaha Exciter BKS 36B6 – 721.35 để đi giải quyết công việc nhằm mục đích chiếm đoạt. Sau khi mượn được xe, bị cáo nói dối là xe của mình để nhờ A Hoàng THnh Đ đem đi cầm cố lấy 12.000.000 đồng để chuộc lại điện thoại và chi tiêu cá nhân hết. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 20.000.000đ.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hnh vi nêu trên của Lê ThA H có đủ các dấu hiệu cấu tHnh tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ Hnh vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hnh vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo có tuổi đời còn trẻ, biết và nhận thức rõ chiếc xe máy không thuộc quyền sở hữu của mình nhưng vì mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo đã dùng lời nói gian dối làm cho bị hại tin tưởng giao tài sản. Do đó cần xử lý nghiêm minh.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo tHnh khẩn khai báo. Nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm b, i, s khoản 1; Điều 51 BLHS giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ Hnh vi phạm tội thấy rằng: Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, nhưng không chịu khó làm ăn mà ham chơi, thích hưởng thụ, chọn lối sống buông thả, nhiều lần cầm cố tài sản của người khác để tiêu sài cá nhân. Bị cáo phạm tội không pH do nhất thời, cho thấy sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, khi xem xét về hình phạt cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét mức độ Hnh vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nên giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo tHnh người có ích cho xã hội.

[4] Về dân sự: Theo báo cáo của bị hại, A Đàm Tiến A đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm. Bị cáo đã trả số tiền 12.000.000đồng cho anh Hoàng THnh Đ để anh Đ trả lại cho chị Lê Thị Thúy H. Chị H đã nhận đầy đủ và không có yêu cầu gì, nên công nhận phần dân sự đã giải quyết xong.

[5] Về án phí: Bị cáo pH nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Điều 136 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lê ThA H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Lê ThA H 12 (mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn chấp Hnh hình phạt tù tính từ ngày bắt thi Hành án.

Về dân sự: Công nhận phần dân sự đã giải quyết xong.

Án phí: Bị cáo pH nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo pH thi Hành án dân sự có quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hược ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2022/HS-ST

Số hiệu:69/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về