Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 63/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 63/2021/HS-PT NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HSPT ngày 16/4/2021, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HSST ngày 20/01/2021 của Tòa án nhân dân Tp. Phan Thiết bị kháng cáo.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1985 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn X, xã N, Tp. P, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Ch (chết) và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1950; có vợ nhưng đã ly hôn và 01 con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

- Bị hại: Ông Lê Văn L, sinh năm 1983 Nơi cư trú: Khu phố M, phường Đ, Tp. P, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ 30 phút ngày 04/11/2018 do không có tiền tiêu sài nên Nguyễn Hữu H đã nảy sinh ý định đi chiếm đoạt tài sản của người khác. H dán hình của mình lên chứng minh nhân dân mang tên Lê Minh T, sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang mà H nhặt được trước đó rồi bắt xe bus từ siêu thị coopmart thuộc phường Bình Hưng, Tp Phan Thiết đi ra khu vực phường Hàm Tiến, Tp Phan Thiết. Tới nơi, H thuê phòng nghỉ tại khách sạn “Chào Hotel” nằm trên đường Nguyễn Đình Chiểu thuộc khu phố 01, phường Hàm Tiến, Tp Phan Thiết để nghỉ. Tại quầy L tân H đưa 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Minh T để xin thuê phòng và lên phòng 205 của khách sạn để nghỉ. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, H xuống quầy L tân gặp bà Trần Lệ V để hỏi việc thuê xe mô tô thì được bà V giới thiệu sang bên ông Lê Văn L (là chồng bà V) để thuê xe. Sau khi gặp ông L, H thuê 01 chiếc xe mô tô để đi trong 02 ngày thì ông L đồng ý và đưa cho H chiếc xe mô tô biển số 86T2-6453 với giá 150.000đồng/ngày nhưng không làm hợp đồng. Sau khi thuê được chiếc xe, H điều khiển về nhà tại thôn Xuân Tài, xã Phong Nẫm, Tp Phan Thiết để cất giấu. Sau đó đem chiếc xe này đến nhà ông Trần Ngọc A tại thôn 03, xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận để bán cho ông A với giá 3.500.000 đồng, khi bán xe H nói với A là xe của mình nhưng bị mất giấy tờ do cần tiền nên mới bán nên A đồng ý mua. Sau khi mua xe A đã đưa chiếc xe trên cho mẹ là bà Võ Thị Ngọc H quản lý, sử dụng.

Đến ngày 04/8/2020 ông L và bà V đi công việc thì phát hiện chiếc mô tô biển số 86T2-6453 của mình đang dựng tại quán phở Sáu Tỳ thuộc phường Đức Long, Tp Phan Thiết nên đã báo Công an phường Đức Long.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki biển số 86T2-6453, số khung: 090102245, số máy:F4A5-159125 được thu giữ từ bà H; Ngoài ra bà Trần Lệ V giao nộp:

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 86T2-6453 mang tên Nguyễn Gia Sơn;

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Minh Tánh;

- 01 ba lô màu đen hiệu HP bên trong có quần áo của Nguyễn Hữu H.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 187/KL-HĐĐG ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tp Phan Thiết kết luận: 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki biển số 86T2-6453, số khung: 090102245, số máy:F4A5-159125, trị giá tài sản là 5.400.000đồng.

Tại kết luận giám định số 567/KLGĐ-PC09 ngày 10/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận chứng minh nhân dân Lê Minh T như sau:

- Phôi giấy và hình dấu tròn trên giấy chứng minh nhân dân số 312233561 là thật;

- Giấy chứng minh nhân dân số: 312233561 đã bị thay ảnh;

- Không có dấu vết tẩy xóa, sửa chữa trên giấy chứng minh nhân dân số 312233561.

Qúa trình điều tra xác định chiếc xe mô tô biển số 86T2-6453 do ông Nguyễn Gia Sơn, sinh năm 1988, trú tại khu phố Phú Cường, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận đứng tên sở hữu nhưng ông Sơn đã bán chiếc xe trên cho ông Lê Văn L vào tháng 10/2017 nhưng ông L chưa làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Tp Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại cho ông Lê Văn L. Ông L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì, đồng thời có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho H.

Đối với ông Trần Ngọc A và bà Võ Thị Ngọc H là người mua và sử dụng chiếc xe mô tô biển số 86T2-6453 từ H, sau khi giao nộp lại chiếc xe, H đã trả lại cho ông A 2.500.000đồng. ông A không yêu cầu H bồi thường thêm.

Đối với chiếc ba lô màu đen hiệu HP bên trong có quần áo, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại Nguyễn Hữu H.

Đối với chứng minh nhân dân mang tên Lê Minh Tánh, do chưa lấy được lời khai của Tánh nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ để xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HSST ngày 20/01/2021 của Tòa án nhân dân Tp. Phan Thiết đã xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu H, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Hữu H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Nguyễn Hữu H pH nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Ngày 01 tháng 02 năm 2021 bị cáo Nguyễn Hữu H làm đơn kháng cáo cho rằng do hoàn cảnh gia đình khó khăn hiện nay đang pH nuôi mẹ già và con nhỏ nên bị cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Hữu H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về vụ án và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Hữu H thừa nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng, không oan.

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2] Chỉ vì muốn có tiền mà không mất sức lao động, nên vào ngày 04/11/2018 bị cáo Nguyễn Hữu H đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Suzuki biển số 86T2-6453 trị giá 5.400.000 đồng của ông Lê Văn L tại khu phố 01, phường Hàm Tiến, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, sau đó đem bán cho ông Trần Ngọc A 3.500.000đồng để lấy tiền tiêu sài.

[3] Nên bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự, như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết.

[4] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, mà còn gây mất ổn định về trật tự tại địa phương. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo có được, như: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự nguyện khắc phục hậu quả, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 09 tháng tù, là có căn cứ.

[5] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình, hiện nay bị cáo đang phải nuôi mẹ già ( 71 tuổi) và con nhỏ đã học hết lớp 5 lên lớp 6, nếu bị cáo đi tù thì không ai đưa con bị cáo đi học; đồng thời bị cáo có cung cấp đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn như bị cáo khai, đơn này được chính quyền địa phương là Thôn trưởng và Ủy ban nhân dân xã Phong Nẫm nơi bị cáo cư trú ký xác nhận, đây là tình tiết giảm nhẹ mới.

[6] Căn cứ vào Điều 2,3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo thì bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo. Nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách 18 tháng; như vậy cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Nên kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo được chấp nhận.

[7] Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[8] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo.

Xử phạt: Nguyễn Hữu H 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 15/6/2021.

- Giao bị cáo Nguyễn Hữu H cho Ủy ban nhân dân xã Phong Nẫm, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Trong trường hợp bị cáo Nguyễn Hữu H thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự;

- Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Hữu H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 15/6/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 63/2021/HS-PT

Số hiệu:63/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về