Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 570/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 570/2023/HS-PT NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 226/2023/TLPT-HS ngày 01 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn T bị Tòa án nhân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 364/2021/HS-ST ngày 04/11/2021.

Bị cáo Nguyễn Văn T, sinh năm 1977; nơi ĐKNKTT: xã T, thị xã K, tỉnh Hải Dương; chỗ ở hiện nay: P1406 - CT E, khu đô thị V, phường L, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị B; có vợ là Trần Thị Kim Đ và có 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: không; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo (do Tòa án chỉ định): Luật sư Đinh Thị Kim T2 - Công ty L thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/7/2020, bà Lê Thị A gửi đơn đến cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hà Nội tố giác bị Nguyễn Văn T lừa đảo chiếm đoạt số tiền 1.135.000.000 đồng bằng thủ đoạn hứa hẹn xin cho con trai bà A là anh Đỗ Đăng C, vào làm việc trong ngành Công an. Bà A giao nộp cho cơ quan điều tra toàn bộ giấy chuyển tiền, USB chứa File âm thanh ghi âm cuộc nói chuyện giữa Nguyễn Văn T với bà Lê Thị A thể hiện nội dung T nhận tiền của bà A và hứa xin việc làm cho con trai bà A; Giấy cam kết đứng tên Nguyễn Văn T ngày 26/8/2020 có nội dung về việc T nhận tiền xin việc cho con bà A.

Quá trình điều tra xác định: Đầu năm 2017, bà Lê Thị A có quen biết Nguyễn Văn T. Bà A có con trai là anh C vừa học xong cao học Đại học Q, muốn nhờ T xin việc cho anh C vào cơ quan nhà nước, T đồng ý. Tháng 4/2017, T gặp trực tiếp vợ chồng bà A và giới thiệu có quen biết cán bộ lãnh đạo cấp cao của Bộ Công an có khả năng xin cho anh C vào ngành Công an với chi phí 50.000 USD. Do tin tưởng T xin được việc cho con nên bà A đã chuyển vào tài khoản số 1305205065515 mở tại Ngân hàng N (A1) của Nguyễn Văn T số tiền l.100.000.000 đồng, đồng thời anh C đã nộp cho T 01 bộ hồ sơ xin việc. Do tỷ giá đô la tại thời điểm này là 22.700 đ/lUSD nên T yêu cầu bà A đưa thêm 35.000.000 đồng thì mới đủ số tiền 50.000 USD, giữa tháng 4/2017 bà A đã trực tiếp đưa cho T 35.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền và hồ sơ của anh C, T cam kết trong năm 2017 sẽ xin được việc cho anh C.

Đến hạn cam kết nhưng T vẫn không xin việc được cho anh Đỗ Đăng C như đã hẹn, bà A có gọi điện cho T để hẹn gặp và yêu cầu trả lại tiền nhưng T lẩn tránh không gặp, không trả lại tiền cho gia đình bà A. Do bà A đòi tiền và thúc giục nhiều lần nên ngày 26/8/2020, Nguyễn Văn T đã viết Giấy cam kết cho bà A với nội dung “Đầu năm 2017, Nguyễn Văn T có nhận của chị Lê Thị A số tiền 50.000 USD xin việc cho con trai của chị A vào ngành Công an. Nhưng cho đến nay tôi không xin được cho cháu vào ngành công an và tôi đã trả được cho chị A 200 triệu đồng. Số tiền còn lại 935 triệu đồng tôi xin cam kết mỗi tháng trả chị A 200 triệu đồng”.

Tại bản kết luận giám định số 5895/C09-P9 ngày 11/9/2020 của V - Bộ Công an xác định tiếng nói của người đàn ông trong File ghi âm bà A giao nộp là của Nguyễn Văn T, không tìm thấy dấu vết cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung, file ghi âm thể hiện nội dung T nhận 50.000 đô la để lo công việc của C nhưng không được và hứa hẹn thu xếp tiền để trả.

Tại bản kết luận giám định số 8324/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 23/9/2020 của Phòng K - Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Văn T trên Giấy cam kết đề ngày 26/8/2020 là chữ ký, chữ viết của Nguyễn Văn T.

Xác minh tại Cục Tổ chức cán bộ (X01) Bộ Công an xác định từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/12/2017, Cục Tổ chức cán bộ không tiếp nhận hồ sơ liên quan đến việc tuyển chọn Đỗ Đăng C vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân.

Về dân sự: Sau khi bà A gửi đơn đến Cơ quan điều tra tố cáo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của T. T đã trả lại cho bà An toàn bộ số tiền chiếm đoạt 1.135.000.000 đồng. Ngày 03/10/2020, bà A đã có đơn xin rút đơn tố giác đối với T và đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn T.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 364/2021/HS-ST ngày 04/11/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản l và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/11/2021, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt với lý do trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho người bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bản thân chưa có tiền án, tiền sự, luôn chấp hành tốt các quy định của địa phương, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già bị bệnh tật, hai con còn nhỏ; là lao động chính trong gia đình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe không được tốt, bị suy nhược cơ thể, thường xuyên bị tiền đình, đau đầu, chóng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt; tại phiên tòa hôm nay bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do sức khỏe không được tốt nhưng không cung cấp tài liệu gì để chứng minh tình hình sức khỏe của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục xét xử vụ án.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng, có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 08 năm tù là phù hợp; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Bị cáo đã gian dối để chiếm đoạt của bà Lê Thị A 1.135.000.000 đồng và đã khắc phục toàn bộ số tiền chiếm đoạt. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng tội danh và khung hình phạt. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, đã bồi thường toàn bộ cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị, xử phạt bị cáo 07 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do sức khỏe không được tốt, bị suy nhược cơ thể, thường xuyên bị tiền đình, đau đầu, chóng mặt nhưng không cung cấp tài liệu gì để chứng minh về tình hình sức khỏe của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc tiếp tục xét xử vụ án như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là phù hợp với quy định tại Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh và điều luật áp dụng, căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn T làm nghề kinh doanh tự do, không có chức năng tuyển dụng lao động vào ngành Công an nhân dân, nhưng T đã đưa ra thông tin gian dối với bà Lê Thị A là T có quen biết lãnh đạo cấp cao Bộ Công an nên có khả năng xin cho anh Đỗ Đăng C (con trai bà A) vào làm việc trong ngành Công an với chi phí 50.000 USD (tương đương 1.135.000.000 đồng). Do tin tưởng T nói là thật nên bà A đã chuyển cho T số tiền 1.135.000.000 đồng cùng bộ hồ sơ để T xin việc cho anh C. Sau khi nhận được tiền, T không thực hiện được cam kết mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền để chi tiêu cá nhân. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Nguyễn Văn T thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu; sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã cố gắng khắc phục toàn bộ hậu quả và người bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và xin giảm nhẹ hình phạt; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu; hiện là lao động chính trong gia đình đang nuôi 02 con còn nhỏ. Tòa án cấp sơ thẩm đã cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 08 năm tù và miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử xét thấy không có tình tiết gì mới để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo; bởi vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[5] Do không được chấp nhận kháng cáo, căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo tại Bản án hình sự sơ thẩm số 364/2021/HS-ST ngày 04/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản l, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 570/2023/HS-PT

Số hiệu:570/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về