Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 55/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 55/2023/HS-PT NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22-3-2023, từ điểm cầu Trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nối với điểm cầu Thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Nẵng xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 20/2023/TLPT-HS ngày 13-01-2023 đối với Nguyễn Thị Lệ H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2022/HSST ngày 12-12-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyn Thị Lệ H, sinh ngày 25-4-1971 tại Thanh Hóa; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: thành phố Hà Nội; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt N; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp trước khi phạm tội: Cán bộ Trung tâm Thông tin khoa học và Tư liệu giáo khoa thuộc Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I; con ông Nguyễn Văn H và bà Vũ Thị H; chồng là Vũ Hoài N (đã ly hôn) và có 02 con.

Tiền án, Ngày 28-5-2018, Tòa án nhân dân quận T, thành phố Hà Nội xử phạt 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 năm.

Bị cáo bị bắt ngày 23-12-2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

Những người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo: Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Vũ Quang K - Công ty Luật TNHH MTV H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai, vắng mặt.

(Vụ án còn có 02 bị hại, 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Lệ H là cán bộ Trung tâm Thông tin khoa học và Tư liệu giáo khoa thuộc Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I (sau đây viết tắt là Cao đẳng CSND I). H không có chức năng, thẩm quyền trong việc xét tuyển người vào làm việc hay học tập tại Trường Cao đẳng CSND I, nhưng lợi dụng nhu cầu cần việc làm và đi học của một số người, H đã đưa ra thông tin gian dối là có khả năng xin việc làm, xin đi học tại Trường Cao đẳng CSND I và đưa ra thông tin là có khả năng xin cho người bị tạm giam được tại ngoại hoặc án treo, từ đó làm cho các bà Phan Thị Thanh T, Bùi Thị Tố N tin tưởng là thật, nên đã đưa cho H 960.000.000 đồng và bị H chiếm đoạt, cụ thể:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 660.000.000 đồng của bà Phan Thị Thanh T (trú tỉnh Gia Lai):

Năm 2015, bà Phan Thị Thanh T được ông Thái Hồng M (trú tại thành phố Hà Nội, là bạn học cấp III của bà T) giới thiệu, nên biết Nguyễn Thị Lệ H. Qua nói chuyện, H biết bà T có nhu cầu xin cho con gái là chị Trương Thị Thanh H sau khi tốt nghiệp Khoa Kế toán trường Đại học Công đoàn được làm việc tại thành phố Hà Nội. H nói có khả năng xin được việc, hứa hẹn xin cho chị H vào làm Kế toán tại Trường Cao đẳng CSND I - Bộ Công an, với số tiền 500.000.000 đồng và yêu cầu bà T chuyển trước trên 50% số tiền. Sau khi xin được việc, thì bà T phải đưa nốt số tiền còn lại cho H, bà T tưởng thật nên đồng ý. Ngày 10-8-2015 và ngày 14-8-2015, bà T chuyển vào Tài khoản số 21510001625818 của Nguyễn Thị Lệ H mở tại Ngân hàng X - Chi nhánh C, thành phố Hà Nội 280.000.000 đồng để lo chi phí xin việc làm cho chị H. Sau đó khoảng một tuần, bà T gọi điện thoại cho H để trao đổi công việc, thì H biết được con gái thứ hai của bà T là chị Trương Thị H Thanh thi tuyển vào Trường Đại học Cảnh sát nhân dân - Bộ Công an, nhưng không trúng tuyển, thì H hứa hẹn với bà T xin cho chị Thanh vào học tại Trường Cao đẳng CSND II - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh, với số tiền 700.000.000 đồng và yêu cầu bà T chuyển trước trên 50% số tiền. Sau khi xin được cho chị Thanh, thì bà T phải chuyển nốt số tiền còn lại cho H, bà T đồng ý. Ngày 31-8-2015, bà T đã chuyển 380.000.000 đồng vào Tài khoản số 21510001625818 của H để xin đi học cho chị Thanh. Tổng số tiền mà bà T đã chuyển cho H để xin việc, xin đi học cho hai con là 660.000.000 đồng. Đến đầu năm 2016, H không xin được việc làm và xin đi học cho hai con gái như đã hứa, nên bà T đã nhiều lần gặp H để đòi tiền, H đều hứa hẹn nhưng không trả. Đến ngày 27-4-2016, H viết “Giấy nhận tiền” với nội dung “Tôi có nhận của chị Phan Thị Thanh T - địa chỉ Gia Lai. Số tiền là 380.000.000 đồng để lo việc cho con chị T. Hẹn ngày 15 tháng 5 năm 2016, tôi sẽ hoàn trả lại số tiền trên cho chị T. Nếu sai hẹn tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật”. Sau đó bà T yêu cầu H viết thêm 01 Giấy nhận tiền cam kết trả lại số tiền 280.000.000 đồng, nhưng H không viết. Sau nhiều lần đòi tiền, đến năm 2018, H trả cho bà T 10.000.000 đồng và năm 2020, H trả tiếp cho bà T 15.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản. Sau đó H không trả cho bà T số tiền còn lại, nên bà T đã làm đơn tố cáo gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 300.000.000 đồng của bà Bùi Thị Tố N (trú tại tỉnh Vĩnh Phúc):

Ngày 01-02-2021, Nguyễn Văn T - Nguyên Trưởng Công an thị trấn Q, huyện M, thành phố Hà Nội bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội khởi tố, bắt tạm giam về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Sau đó, hồ sơ được chuyển đến Cơ quan điều tra hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý, điều tra theo thẩm quyền. Anh trai ruột của T là Nguyễn Mạnh C (trú tại thành phố Hà Nội) nói chuyện với người quen là bà Bùi Thị Tố N xem có thể nhờ ai lo cho T được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú không. Do quen biết H và nghĩ H có mối quan hệ rộng, có thể giúp, nên bà N liên lạc nhờ H lo giúp cho T, H đồng ý. Thời điểm này H đang làm Cộng tác viên tại Chuyên trang Truyền hình pháp luật - Báo Pháp luật Việt N thuộc Bộ Tư pháp. H điện thoại cho Luật sư Hoàng Văn T để hỏi về thủ tục tại ngoại rồi thông báo cho bà N chuẩn bị đơn và giấy tờ liên quan. Ngày 05-02-2021, bà N đến gặp và gửi cho H “Đơn xin tại ngoại” cùng bản Photocoppy nhiều bằng khen của Nguyễn Văn T. H nói muốn biết có giúp được hay không, thì bà N phải chuẩn bị 1.000 USD để đi quan hệ thuốc nước, nhưng bà N không đồng ý. Quá trình thoả thuận, từ ngày 05-02 đến ngày 06-02-2021, H nói đã nhờ bác là Nguyễn Văn T - Điều tra viên trung cấp thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và anh Lý Đình T - Điều tra viên cao cấp thuộc Phòng 8, Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an để nhờ lo giúp tại ngoại và án treo cho anh T và thống nhất chi phí là 800.000.000 đồng, nhưng bà N không đồng ý do số tiền quá lớn, nên không nhờ H giúp nữa. Ngày 16-02-2021, bà N liên lạc với H, muốn tiếp tục nhờ H lo cho T được tại ngoại và thống nhất chi phí là 400.000.000 đồng. Ngày 23-02 và ngày 25-02-2021, bà N chuyển 300.000.000 đồng đến Tài khoản số 0491000129988 của H mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt N. Bà N đề nghị khi nào T được tại ngoại sẽ chuyển nốt 100.000.000 đồng còn lại. Sau khi nhận tiền, H nói bà N sau ba ngày T sẽ được tại ngoại, nhưng thực tế T không được tại ngoại. Qua nhiều lần hứa hẹn, T vẫn không được thay đổi biện pháp ngăn chặn như thoả thuận, bà N yêu cầu trả lại tiền nhưng H không thực hiện, liên lạc không nghe máy, nên bà N đến Cơ quan Công an trình báo.

Đối với số tiền nhận từ bà N, H khai trước đó H nhờ Nguyễn Ngọc H là Phó Tổng Thư ký chuyên trang điện tử Truyền hình pháp luật - Báo Pháp luật Việt N để lo giúp cho T được tại ngoại, H nhận lời nên H tự lấy 1.000 USD (tương đương 23.000.000 đồng) của cá nhân đưa cho H để lo việc giao dịch trà nước... Sau khi nhận 300.000.000 đồng từ bà N, H đã đưa cho H 200.000.000 đồng. Do H không lo được cho T tại ngoại, nên H đòi lại tiền và ông H đã trả cho H 140.000.000 đồng. Ông Nguyễn Ngọc H xác nhận có nhận của H số tiền 200.000.000 đồng và 1.000 USD nhưng cho rằng đây là tiền H đưa để trả nợ quỹ cho Phòng An ninh xã hội thuộc chuyên trang Truyền hình Pháp luật do H phụ trách. Sau khi H nói là tiền cá nhân đi vay mượn bên ngoài, giờ người ta đòi nên ông H đã nhờ vợ là bà Hoàng Thị Hải Yến chuyển trả qua tài khoản Ngân hàng cho H 140.000.000 đồng, số tiền còn lại ông H trực tiếp trả bằng tiền mặt. Việc H đưa tiền cho ông H cũng như việc ông H trả số tiền mặt cho H, cả hai bên không ghi chép giấy tờ, sổ sách gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra cho H và ông H đối chất nhưng cả hai đều giữ nguyên lời khai của mình. Ngoài lời khai của Nguyễn Thị Lệ H và các tin nhắn thì không có chứng cứ, tài liệu nào khác, do đó chưa đủ căn cứ xác định ông Nguyễn Ngọc H nhận của H 200.000.000 đồng và 1.000 USD để lo cho Nguyễn Văn T được tại ngoại.

Thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu:

Ngày 23-12-2021, khi thực hiện việc bắt bị can để tạm giam, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tạm giữ của Nguyễn Thị Lệ H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50s, số Imei:

3520491122056164/01; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F1s, số Imei: 863091038310798.

Trách nhiệm dân sự:

Gia đình Nguyễn Thị Lệ H đã trả cho bà Phan Thị Thanh T số tiền 425.000.000 đồng, trả cho bà Bùi Thị Tố N số tiền 250.000.000 đồng; bà T và bà N không yêu cầu H phải trả số tiền còn lại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2022/HS-ST ngày 12-12-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 56 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Nguyễn Thị Lệ H 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2018/HSST ngày 28-5-2018 của Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-12-2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 13-12-2022, bị cáo Nguyễn Thị Lệ H kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Ngày 13-12-2022, bị cáo Nguyễn Thị Lệ H kháng cáo bản án; đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Lệ H từ chối Luật sư bào chữa và đề nghị được tự bào chữa tại phiên toà; trước phần xét hỏi công khai, bị cáo giữ nguyên kháng cáo, đề nghị giảm hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo; sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo không tranh luận; nói lời sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Lợi dụng việc bà Phan Thị Thanh T có nhu cầu muốn xin cho hai con gái được tuyển dụng vào làm việc, vào học tại trường Cao đẳng CSND I; lợi dụng việc bà Bùi Thị Tố N muốn xin cho người quen được tại ngoại và hưởng án treo, mặc dù không có chức năng, thẩm quyền trong việc xét tuyển người vào làm việc, vào học, không có thẩm quyền trong việc thay đổi biện pháp ngăn chặn, xin cho người khác được tại ngoại, xét xử được hưởng án treo, nhưng Nguyễn Thị Lệ H đã đưa ra thông tin gian dối làm cho các bị hại tin tưởng, đưa cho H 960.000.000 đồng, sau đó H chiếm đoạt sử dụng cá nhân.

Hành vi của Nguyễn Thị Lệ H đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, Toà án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Lệ H là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an địa phương, làm ảnh hưởng lòng tin của người dân về quy trình tuyển dụng trong các trường Cảnh sát nhân dân, trong hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 (mười ba) năm tù.

Tại phiên toà phúc thẩm, Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Gia Lai cung cấp thông tin trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Lệ H đã cung cấp nhiều thông tin phục vụ cho công tác điều tra vụ án liên quan đến tội phạm an ninh quốc gia. Ngoài ra, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; tác động gia đình bồi thường xong cho các bị hại; quá trình công tác tại trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I, bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng 3, nhiều Bằng khen; mẹ bị cáo được Nhà nước tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba... . Do tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và có cơ sở chấp nhận.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Lệ H.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2022/HS-ST ngày 12-12-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về phần Trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị Lệ H.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 và khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Nguyn Thị Lệ H 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2018/HSST ngày 28-5-2018 của Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; buộc bị cáo Nguyễn Thị Lệ H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-12-2021.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Nguyễn Thị Lệ H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 55/2023/HS-PT

Số hiệu:55/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về