Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 440/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 440/2023/HS-PT NGÀY 07/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 279/2023/TLPT-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Phan Thị Mỹ L. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14-3-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo kháng cáo:

Phan Thị Mỹ L sinh năm 1981 tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký thường trú: thôn D, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi đăng ký tạm trú: số 1, ngõ 2 đường Cát L, phường Tràng Cát, quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan T và bà Nguyễn Thị T (chết năm 2022); bị cáo có chồng (đã ly hôn) và có 02 người con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; ngày 23/6/2021, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Luật sư Nguyễn Thị Quế A, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4/2016, Phan Thị Mỹ L quen biết với bà Huỳnh Hoa H, sinh năm 1957, nơi thường trú: số 120 đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là Giám đốc của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T (Công ty T), địa chỉ: phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Công ty T chuyên sản xuất hoa giả, có hai thành viên góp vốn là bà H chiếm tỷ lệ 90,77% và con bà H là bà Nguyễn Huỳnh Thiên T, sinh năm 1980 cùng nơi thường trú với bà H, chiếm tỷ lệ 9,23%.

Tài sản của Công ty T là các máy móc sản xuất hoa giả và thửa đất diện tích 4.299,67m2 tại số 5/119 đường T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương (thửa đất của Công ty T) đang thế chấp vay tiền tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C - Chi nhánh C. Công ty T không có khả năng trả nợ nên ngân hàng đã ra thông báo phát mại để thu hồi nợ. Nhà xưởng mà Công ty T đang sử dụng trên thửa đất diện tích đất 5.312,2m2 tại khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn U (thửa đất của Công ty U).

L biết bà H muốn chuyển nhượng toàn bộ vốn góp vào Công ty T nên L bàn với bạn là ông Trịnh Tuấn K, sinh năm 1981, nơi thường trú: 58/22F Đ Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh việc nhận chuyển nhượng vốn góp của bà H để tiếp tục sản xuất kinh doanh thì ông K đồng ý.

Ngày 07/7/2016, bà H và bà T ký hợp đồng chuyển nhượng 100% vốn điều lệ của Công ty T cho L và ông K. ông K làm thủ tục đăng thay đổi thành viên góp vốn và người đại diện theo pháp luật của Công ty T, do công ty đang nợ tiền thuế nên cơ quan có thẩm quyền không đồng ý. Do không được đăng ký thay đổi thành viên, sang tên Công ty T nên L gặp khó khăn trong việc quản lý hoạt động của Công ty. Tháng 8/2018, L thành lập mới Công ty Trách nhiệm hữu hạn LD, địa chỉ trụ sở chính: tầng 4, số 141 N, phường N, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh do L làm Giám đốc để tiếp tục hoạt động sản xuất hoa giả.

Khoảng tháng 12/2016, L kiểm tra hồ sơ, giấy tờ do bà H để lại thì thấy có một số bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ liên quan đến 07 thửa đất. Trong đó, L biết rõ thửa đất của Công ty T đã thế chấp ở ngân hàng và đang bị phát mại, thửa đất của Công ty U không phải của Công ty T. Còn các thửa đất khác L không biết nguồn gốc và thuộc quyền quản lý, sử dụng của ai. Để có tiền đầu tư hoạt động kinh doanh và tiêu xài cá nhân, L nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hình thức sử dụng các giấy tờ liên quan đến 07 thửa đất ký hợp đồng, nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

1. Thông qua bà Phạm Thị T, sinh năm 1969, nơi thường trú: xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (tạm trú: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương) làm nghề môi giới bất động sản, L thỏa thuận với ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1973, nơi cư trú: số A4/26A tổ 10, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương chuyển nhượng 04 thửa đất. L nói với ông P các thửa đất này thuộc quyền sử dụng của Công ty T hoặc do các thành viên của Công ty T đứng tên đang thế chấp tại các ngân hàng, bị cơ quan Thi hành án phát mại. Công ty T được quyền ưu tiên mua nên L yêu cầu ông P đặt cọc cho L để L có tiền liên hệ với cơ quan thi hành án làm thủ tục mua lại các thửa đất này, sau đó L sẽ chuyển nhượng lại cho ông P với giá rẻ hơn giá thị trường. Để ông P tin tưởng giao tiền, L cho ông P xem hợp đồng chuyển nhượng vốn góp của Công ty T giữa bà H với L, bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ khác liên quan đến thửa đất. Cụ thể như sau:

- Thửa đất diện tích 4.299,76 m2 của Công ty T được thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C - Chi nhánh C từ năm 2010. Do Công ty T không trả được nợ nên ngày 20/5/2015 ngân hàng đã ra thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm, bán đấu giá quyền sử dụng đất của Công ty T để thu hồi nợ.

Ngày 15/12/2016, L nhận đặt cọc của ông P số tiền 300.000.000 đồng để chuyển nhượng thửa đất của Công ty T, giá chuyển nhượng là 10 tỷ đồng. L cam kết sau 05 tháng sẽ giao đất cho ông P. Sau đó, L không liên hệ với ngân hàng để trả nợ, làm thủ tục giải chấp thửa đất của Công ty T mà chiếm đoạt số tiền này sử dụng cho mục đích cá nhân.

Đến ngày 14/3/2017, ông Lê Văn N, sinh năm 1969, nơi cư trú: số 82 đường K, Phường C, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh đã mua đấu giá thành công thửa đất của Công ty T và quản lý, sử dụng thửa đất này.

- Thửa đất số 397, tờ bản đồ số 9-3, diện tích 17.000 m2 tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương (gọi tắt là thửa đất số 397) do Công ty Trách nhiệm hữu hạn LI (Việt Nam), địa chỉ: phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương đứng tên chủ quyền sử dụng đất, hình thức nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm (đất do nhà nước quản lý).

Ngày 31/12/2016, L nhận đặt cọc của ông P số tiền 300.000.000 đồng để chuyển nhượng thửa đất số 397 của Công ty LI, giá chuyển nhượng là 10 tỷ đồng. L cam kết sau 05 tháng sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P.

- Thửa đất số 342, tờ bản đồ số 59, diện tích 2.075 m2 tại phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương (gọi tắt là thửa 342) do ông Nguyễn Kim L, sinh năm 1968, nơi cư trú: 96 L, phường B, Quận G Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên đăng ký quyền sử dụng đất.

Nguồn gốc thửa đất 342 do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bình Dương cấp cho ông Huỳnh Văn C (cha của bà Huỳnh Hoa H) ngày 04/8/1997. Ngày 19/9/1997, UBND tỉnh Bình Dương có Quyết định số 2636 chấp thuận cho ông C được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con là bà Huỳnh Hoa H và ông Huỳnh Thanh Q. Sau đó, bà H làm thủ tục tách thửa cho ông Q diện tích 820 m2 đất, diện tích còn lại 1.255 m2 thuộc quyền sử dụng của bà H.

Năm 2003, bà H thế chấp thửa đất 342 (diện tích 1.255 m2) cho Ngân hàng Đ- Chi nhánh Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để vay tiền. Do bà H không thanh toán tiền vay nên Ngân hàng Đ khởi kiện ra Tòa án, sau đó Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương đã phát mại tài sản. Ngày 04/3/2008, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương bán đấu giá thửa đất này cho ông Nguyễn Kim L. Ngày 21/3/2011, ông L được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 21/01/2017 và ngày 22/6/2017, L nhận đặt cọc của ông P số tiền 1.300.000.000 đồng để chuyển nhượng thửa đất số 342. L đưa cho ông P xem Quyết định số 2636 ngày 19/9/1997 của UBND tỉnh Bình Dương về việc chấp nhận cho ông Huỳnh Văn C chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Hoa H và ông Huỳnh Thanh Q, hợp đồng chuyển nhượng vốn góp của bà H cho L. L nói với ông P thửa đất 342 đang thuộc quyền sử dụng của bà H, bà H đã chuyển nhượng vốn góp cho L nên L có quyền chuyển nhượng thửa đất này. L cam kết sau 50 ngày sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P.

- Thửa đất diện tích 5.312,18 m2 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn U do UBND tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/6/1999 theo hình thức cho thuê đất. Ngày 01/7/2010, Công ty U ký với Trường phổ thông Trung học H (do bà H làm đại diện) hợp đồng góp vốn, xây dựng trường học trên thửa đất này. Sau đó, bà H không thực hiện việc xây dựng trường học như thoả thuận và không trả lại nhà xưởng cho Công ty U nên xảy ra tranh chấp. Công ty U khởi kiện ra Toà án nhân dân thành phố T. Theo Bản án số 34/2017/DS-ST ngày 19/4/2017 của Toà án nhân dân thành phố T tuyên buộc bà H tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, di dời toàn bộ vật dụng, trả lại hiện trạng mặt bằng là các nhà xưởng trên thửa đất diện tích 5.312,18 m2 của Công ty U.

Các ngày 15/12/2016, 26/12/2016 và 29/10/2017, L nhận đặt cọc của ông P tổng số tiền 800.000.000 đồng để chuyển nhượng thửa đất của Công ty U. L đưa cho ông P xem bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng góp vốn giữa Công ty U với Trường phổ thông Trung học H, hợp đồng chuyển nhượng vốn góp của bà H cho L. L nói với ông P thửa đất của Công ty U đã góp vốn cho Công ty T nên L có quyền chuyển nhượng cho người khác. ông P đồng ý nhận chuyển nhượng một phần thửa đất này có diện tích 2.000m2. L cam kết đến ngày 25/4/2017, sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng sang tên cho ông P.

Tổng số tiền L chiếm đoạt của ông P là 4.150.000.000 đồng, L khai sử dụng để đầu tư kinh doanh và tiêu xài cho mục đích cá nhân.

2. Bằng thủ đoạn tương tự, L lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1980, nơi cư trú: khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương thông qua việc ký hợp đồng, nhận tiền đặt cọc để chuyển nhượng 06 thửa đất như sau:

- Thửa số 1921, tờ bản đồ số 09-3, diện tích 3.821,9 m2 tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương do bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1965, nơi cư trú: Số 74A khu phố H, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương đăng ký chủ quyền sử dụng đất.

Thửa đất số 865+866, cùng tờ bản đồ 04 (ô 15, lô C6), diện tích 700 m2, tại Khu dân cư T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương do ông Huỳnh Quang T, sinh năm 1974, nơi cư trú: số 45 đường N, Phường H, quận T, TP Hồ Chí Minh đăng ký chủ quyền sử dụng đất. Bà N và ông T không phải là thành viên góp vốn của Công ty T, không có mối quan hệ gì với bà Huỳnh Hoa H - Giám đốc của Công ty T.

Ngày 07/4/2018, L ký với bà TU 01 Hợp đồng kinh tế (mua, bán nhà, đất) có nội dung L nhận đặt cọc để chuyển nhượng cho bà TU 02 thửa đất số 1921 và thửa đất số 865+866. bà TU đặt cọc cho L số tiền 600.000.000 đồng, L cam kết sau 30 ngày sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng và bàn giao hai thửa đất này cho bà TU.

- Thửa đất số 503, tờ bản đồ số 11, diện tích 170 m2 tại số 118-120 đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (thửa đất số 503) do ông Lê Mộng T và bà Lê Thị Tuyết N, cùng nơi cư trú: Số 232/45 đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ quyền sử dụng đất.

Nguồn gốc thửa đất số 503 là của bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1955, nơi thường trú: số 120 đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (là chị của bà Huỳnh Hoa H - Giám đốc của Công ty T). Ngày 20/9/2000, bà HO chuyển nhượng thửa đất này cho ông Lê Mộng T và bà Lê Thị Tuyết N. Ngày 27/8/2008, ông TU và bà NH thế chấp thửa đất số 503 cho Ngân hàng N- Chi nhánh Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 24/05/2018, L ký với bà TU 01 Hợp đồng kinh tế (mua bán nhà đất) có nội dung L nhận đặt cọc để chuyển nhượng 04 thửa đất gồm: Thửa đất diện tích 4.299,67 m2 của Công ty T; thửa đất số 397 của Công ty LI; thửa đất số 342 của ông Nguyễn Kim L và thửa đất số 503 của ông Lê Mộng T và bà Lê Thị Tuyết N. bà TU đặt cọc cho L số tiền 1.000.000.000 đồng, L cam kết sau khi đặt cọc 50 ngày L sẽ bàn giao 04 thửa đất cho bà TU. Đến ngày 29/5/2018 và 09/7/2018, L yêu cầu bà TU đặt cọc thêm số tiền 1.300.000.000 đồng.

Tổng số tiền L chiếm đoạt của bà TU là 2.900.000.000 đồng. Đến thời hạn theo thỏa thuận nhưng L không thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà TU nên ngày 08/3/2019 bà TU làm đơn tố cáo L gửi đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương. Sau đó, Viện kiểm sát chuyển đơn của bà TU đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 24/4/2020, ông P nộp đơn tố cáo L có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho Cơ quan điều tra.

Quá trình điều tra Phan Thị Mỹ L thừa nhận hành vi phạm tội của mình. L khai tháng 12/2016 L biết rõ thửa đất của Công ty T đang bị ngân hàng phát mại, Công ty T đang gặp khó khăn tài chính, không có khả năng trả nợ ngân hàng và đang nợ tiền thuế. Mặc dù không có tiền để giải chấp quyền sử dụng đất thế chấp tại ngân hàng nhưng L vẫn ký hợp đồng đặt cọc với ông P, bà TU, cam kết làm thủ tục lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra để ký hợp đồng chuyển nhượng. Do vậy, ông P và bà TU tin tưởng giao tiền đặt cọc cho L, L chiếm đoạt sử dụng cho mục đích cá nhân.

Đối với các thửa đất khác thì L biết không phải là của Công ty T, L không biết do ai quản lý, sử dụng. Để chiếm đoạt được tiền của các bị hại, L đưa cho ông P, bà TU xem bản phô tô Ciấy chứng nhận quyền sử dụng đất, L nói với ông P và bà TU đây là các thửa đất do thành viên góp vốn của Công ty T đứng tên, L đã nhận chuyển nhượng phần vốn góp của bà H nên có quyền chuyển nhượng các thửa đất này. ông P và bà TU tin tưởng vào những thông tin do L đưa ra, nhận thấy giá chuyển nhượng rẻ hơn nhiều so với thị trường nên ông P, bà TU đồng ý ký hợp đồng và giao tiền đặt cọc cho L.

Quá trình điều tra xác định bà Huỳnh Hoa H, bà Nguyễn Huỳnh Thiên T đã xuất cảnh sang Úc ngày 10/7/2016 nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Hiện bà H, bà T chưa nhập cảnh vào Việt Nam nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được.

Theo Kết luận giám định số 436 ngày 08/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Chữ ký, chữ viết của bà Huỳnh Hoa H trên hợp đồng chuyển nhượng vốn góp của Công ty T với Phan Thị Mỹ L do bà H ký, viết ra; chữ ký, chữ viết của Phan Thị Mỹ L trên 02 hợp đồng kinh tế chuyển nhượng 06 thửa đất cho bà TU là do bà L ký, viết ra.

Theo Kết luận giám định số 231 ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Chữ ký, chữ viết của Phan Thị Mỹ L trên các hợp đồng, giấy đặt cọc với ông Nguyễn Văn P là do L viết, ký ra.

Như vậy, tổng số tiền L chiếm đoạt của ông P và bà TU là 7.050.000.000 đồng, L sử dụng để đầu tư kinh doanh và tiêu xài cá nhân hết.

Tại Cáo trạng số 172/CT-VKS-P1 ngày 25 tháng 11 năm 2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Thị Mỹ L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14-3-2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Thị Mỹ L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Thị Mỹ L 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/3/2023, bị cáo Phan Thị Mỹ L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Phan Thị Mỹ L trình bày: Thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo là lao động chính trong gia đình đang nuôi 02 con nhỏ.

Luật sư Nguyễn Thị Quế A trình bày: Ngoài các tình tiết giảm nhẹ Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo, bị cáo L còn có tình tiết giảm nhẹ khác là đang nuôi 02 con nhỏ dưới 16 tuổi, trong đó con nhỏ nhất của bị cáo 10 tuổi đang bị bệnh tim. Bị cáo rất thành khẩn, ăn năn hối cải, không chối bỏ trách nhiệm đối với bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phan Thị Mỹ L 14 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo cảu bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Thị Mỹ L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

Từ tháng 12/2016 đến tháng 5/2018, tại thành phố T, tỉnh Bình Dương, lợi dụng việc được quản lý Công ty T, bị cáo L biết được công ty có các thửa đất đang bị phát mãi, từ đó bị cáo đưa ra thông tin gian dối với ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị Thanh T là bị cáo có quyền ưu tiên mua lại tài sản bán đấu giá đối với các quyền sử dụng đất này của Công ty T. Bị cáo hứa sẽ làm thủ tục, giấy tờ để mua lại các tài sản này, sau đó sẽ chuyển nhượng lại cho ông P, bà TU với giá rẻ. Từ thông tin gian dối bị cáo đưa ra nêu trên làm cho ông P, bà TU tin tưởng nên đã nhiều lần ký hợp đồng đặt cọc và giao tiền cọc cho bị cáo L để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên với L với tổng số tiền là 7.050.000.000 đồng, trong đó của ông P là 4.150.000.000 đồng và của bà TU là 2.900.000.000 đồng. Bị cáo đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền này để đầu tư kinh doanh cho mình và sử dụng tiêu xài cho mục đích cá nhân. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phan Thị Mỹ L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo thể hiện ‎ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả xảy ra cho bị hại. Do đó, cần phải có hình phạt nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo bị truy tố xét xử theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự trong khi bị cáo chỉ có tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị hại Trần Thị Thanh T có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 14 năm tù là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được chứng cứ nào mới là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực theo quy định của pháp luật.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phan Thị Mỹ L phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thị Mỹ L. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14-3-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

2. Tuyên bố bị cáo Phan Thị Mỹ L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phan Thị Mỹ L 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo Phan Thị Mỹ L để thi hành bản án.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Phan Thị Mỹ L phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

427
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 440/2023/HS-PT

Số hiệu:440/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về