Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 43/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 17/01/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST - HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:

Phí Nguyễn Thiệu Q, sinh năm 1998; Nơi thường trú: Tổ X, thị trấn YP, huyện BM, tỉnh Hà Giang; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là Phí Mạnh Đ (Đã chết); Mẹ là Nguyễn Thị Tuyết K; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ ngày 04/10/2022; Tạm giam tại Trại giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bị hại: Bà ACL, sinh năm 1962, Quốc tịch: Đức. Nơi ở: Số nhà X, ngõ Y, đường ÂC, phường NT, quận TH, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Tuyết K (Là mẹ của bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q), sinh năm 1975; Nơi thường trú: Tổ X, thị trấn YP, huyện BM, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 13/10/2020, Phí Nguyễn Thiệu Q lên mạng Internet tìm mua lại tài khoản trên ứng dụng “Be” của Vũ Văn T (Sinh năm 1999; trú tại số nhà X, phố PK, phường TV, quận NTL, Hà Nội) với giá 1.100.000 đồng để chở khách kiếm tiền thêm thu nhập. Sau khi giao dịch mua bán tài khoản, T giao lại cho Q 01 tài khoản “Be” và 01 ảnh chụp Căn cước công dân số  0340990045xx mang tên Vũ Văn T.

Chiều ngày 24/7/2021, Q lên mạng xã hội Facebook và thấy tài khoản Facebook “AL” của bà ACL đăng bài viết tìm mua 01 chiếc máy tính laptop nhãn hiệu Acer Swift 1, đã qua sử dụng. Thấy bà ACL (gọi tắt là L) là người nước ngoài nên Q đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà L. Q lập một tài khoản Facebook tên “Vinz Kol” và 01 tài khoản Zalo tên “Tung Vu” để nhắn tin đến tài khoản Facebook “AL” của bà L. Tiếp theo, Q tải trên mạng Internet hình ảnh 01 chiếc máy tính laptop nhãn hiệu Acer Swift 1 màu bạc rồi gửi ảnh cho bà L. Q nhắn tin với bà L là Q có chiếc máy tính nhãn hiệu Acer cần bán. Sau đó, Q và bà L thống nhất giá mua bán chiếc máy tính trên với giá 5.500.000 đồng. Để tạo sự tin tưởng, Q gửi cho bà L ảnh chụp Căn cước công dân của Vũ Văn T và nhắn cho bà L địa chỉ Q đang ở tại ngõ 585, đường Nguyễn Trãi, phường Văn Quán, quận Hà Đông, Hà Nội. Q lấy lý do khu vực mà Q ở hiện đang bị phong tỏa vì dịch Covid-19, không thể giao dịch trực tiếp được mà phải gửi qua dịch vụ giao hàng của hãng xe công nghệ “Be”. Q tiếp tục tạo ra 01 đơn hàng giả bằng cách vào ứng dụng “Be”, điền thông tin bên gửi là “van tung, số điện thoại 08161124xx, địa chỉ tại số 5 Nguyễn Văn Lộc, phường Mỗ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội”; thông tin bên nhận là “Tuan, số điện thoại 05469299xx, địa chỉ là đường Láng, quận Đống Đa, Hà Nội” (Tên, địa chỉ, số điện thoại của người nhận là do Q tự nghĩ ra), rồi Q chụp ảnh màn hình điện thoại gửi cho bà L xem dịch vụ Q gửi trước đó. Bà L tin tưởng đồng ý mua chiếc máy tính Acer của Q và nhận hàng qua người giao hàng của ứng dụng “Be”. Q cung cấp cho bà L số điện thoại của Q là 08161122xx và số điện thoại của nhân viên giao hàng là 07690913xx.

Sáng ngày 25/7/2021, Q lấy 02 viên đá lát nền bị vỡ (01 viên màu trắng, 01 viên màu đen) giả làm chiếc máy tính nhãn hiệu Acer Swift 1 cho vào 01 hộp bìa cát tông màu vàng và dán kín hộp bằng băng dính. Q giả làm nhân viên giao hàng của hãng xe công nghệ “Be”, điều khiển xe máy hiệu Honda Wave màu trắng (Không nhớ biển kiểm soát) chở theo hộp bìa cát tông đã chuẩn bị sẵn di chuyển từ phòng trọ của Q tại phố Yên Bình, phường Phúc La, quận Hà Đông, Hà Nội đến ngõ 399, đường Âu Cơ, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến nơi Q sử dụng số điện thoại 07690913xx gọi điện cho bà L ra nhận hàng và đưa cho bà L gói hàng đã chuẩn bị trước. Bà L tin tưởng, không mở gói hàng ra kiểm tra mà đưa 5.500.000 đồng để trong 01 chiếc phong bì cho Q. Sau khi vào nhà, bà L mở và kiểm tra gói hàng thì thấy bên trong có 02 viên đá lát nền nhà, không có chiếc máy tính laptop nhãn hiệu Acer Swift 1 đã mua. Cùng ngày 25/7/2021, bà L đã đến Công an quận Tây Hồ để trình báo sự việc.

Ngày 04/10/2022, Phí Nguyễn Thiệu Q đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tây Hồ đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng, đồ vật, tài sản liên quan gồm:

- Thu giữ của Phí Nguyễn Thiệu Q: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xám đã qua sử dụng, không có số imei ghi trên thân sau vỏ máy.

- Bà ACL giao nộp: 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 02 viên đá; 01 USB màu đen là hình ảnh chụp thông tin trao đổi tin nhắn giữa tài khoản của bà L và tài khoản “ Vinz Kol”, tài khoản “ Tung Vu”.

Đối với Vũ Văn T, kết quả điều tra xác định khi bán tài khoản “Be” và cung cấp thông tin số Căn cước công dân cho Q, Tùng không biết Q sử dụng hình ảnh Căn cước công dân của T để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Đối với chiếc xe máy hiệu Honda Wave màu trắng do Phí Nguyễn Thiệu Q sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm, Q khai không nhớ biển kiểm soát. Tháng 8/2021, Q đã bán chiếc xe máy trên cho một người đàn ông không quen biết với giá 3.000.000 đồng nên Cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc xe trên.

Bản Cáo trạng số 14/CT-VKSHN – P2 ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như bản Cáo trạng đã công bố. Về tội danh và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q hình 03 tháng 13 ngày tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xám đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội. Tịch thu tiêu hủy: 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 02 viên đá.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại số tiền 5.500.000 đồng. Bà L đã nhận tiền và không yêu cầu về phần bồi thường dân sự.

- Bị cáo trình bày: Công nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố là đúng người, đúng tội, không oan; Bị cáo phạm tội lần đầu, đã tự nguyện ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bị hại là bà ACL, Quốc tịch: Đức. Quá trình điều tra vụ án, bà L đã nhận lại tiền và không yêu cầu về phần bồi thường dân sự. Bị hại có đơn đề nghị Toà án xử vắng mặt. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Tuyết Khuyến tại Cơ quan điều tra đã có lời khai và đã có ý kiến thể hiện quan điểm. Xét thấy việc vắng mặt bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tội danh và hình phạt:

- Về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; đối chiếu với lời khai của người bị hại và những người liên quan; các biên bản xác minh; các biên bản thu giữ tài sản, giấy tờ, tài liệu; các bản kết luận giám định; các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q nảy sinh ý định lên mạng xã hội tìm người để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 24/7/2021, bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q lập tài khoản kết bạn, nói chuyện với tài khoản Facebook “AL” của bị hại là bà ACL (Sinh năm 1962; quốc tịch Đức) người đang có nhu cầu mua máy tính laptop nhãn hiệu Acer Swift 1. Để thực hiện ý định chiếm đoạt tài sản, bị cáo Q tải thông tin hình ảnh máy tính trên mạng Internet, tạo ra đơn giao hàng giả trên ứng dụng “Be” rồi chụp lại gửi cho bà L biết. Bà L đồng ý mua máy tính nhãn hiệu Acer Swift 1 của bị cáo Q với giá 5.500.000 đồng. Sau khi được bà L tin tưởng, sáng ngày 25/7/2021, bị cáo Q đã giả làm nhân viên giao hàng của hãng “Be” điều khiển xe máy đến ngõ X, đường ÂC, phường NT, quận TH, Hà Nội giao cho bà L 01 hộp bìa cát tông màu vàng bên trong 02 viên đá lát nền bị vỡ được dán kín bằng băng dính giả làm chiếc máy tính. Bà L tin tưởng đưa tiền 5.500.000 đồng cho bị cáo Q mà không kiểm tra hàng. Sau khi mở hàng, biết bị Q lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bà L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ để trình báo. Ngày 04/10/2022, bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tây Hồ đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Bản Cáo trạng số 14/CT-VKSHN– P2 ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Về hình phạt: Bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử nhận định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Số tiền chiếm đoạt là 5.500.000 đồng đã được gia đình bị cáo bồi thường khắc phục; Bị cáo tự nguyện đầu thú, đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo; sau khi xem xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bà Nguyễn Thị Tuyết K (Là mẹ bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q) đã tự nguyện thay cho bị cáo trả lại số tiền 5.500.000 đồng cho bị hại. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trao trả bà ACL số tiền 5.500.000 đồng. Bà L đã nhận tiền và không yêu cầu về phần bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xám đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật không còn giá trị: 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 02 viên đá.

[5] Về án phí: Bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, [1] Về tội danh và hình phạt:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q 03 (Ba) tháng 13 (Mười ba) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xám đã qua sử dụng, không có số imei ghi trên thân sau vỏ máy.

- Tịch thu tiêu hủy 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 02 viên đá.

Tình trạng vật chứng như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Phí Nguyễn Thiệu Q phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, án xử công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 43/2023/HS-ST

Số hiệu:43/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về