Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 170/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 170/2023/HS-ST NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 174/2023/TLST-HS ngày 03/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2023/QĐXXST-HS ngày 11/7/2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Hoàng HA Sinh năm: 2004 HKTT: Tổ X, phường C, thành phố S, tỉnh S.

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Thái Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 12/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông: Hoàng Thượng N (đã chết) Con bà: Phạm Thị H1 SN 1981 Gia đình có bị cáo là con duy nhất Chồng, con: Không Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo đầu thú ngày 13/3/2023; tạm giữ từ ngày 14/3/2023. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Trần Quốc K, sinh năm 2004. HKTT: Phường C, thành phố S, tỉnh S(Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Cà Đức M, sinh năm 2003. HKTT: Xã C, huyện M, tỉnh S (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28/02/2023, Hoàng HA có mượn của anh Nguyễn Hải Đ (Sinh năm 2003; Trú tại: Phường C, thành phố S, tỉnh S) chiếc máy tính xách tay màu đen nhãn hiệu Acer Aspire 7 để sử dụng trong thời gian 2 ngày. Ngày 01/3/2023, do cần tiền tiêu nên HA đã hỏi mượn anh Đ thêm vài ngày nữa, anh Đ đồng ý. Sau đó, Hoàng HA đã mang máy tính Acer Aspire mượn của anh Đ đến cửa hàng ‘‘Cầm đồ XX’’ ở số Z Đ, phường M, quận N, thành phố H cầm cố cho anh Nguyễn Văn H (Sinh năm 2000, Trú tại: Xóm Y, xã H, huyện H, tỉnh N) là nhân viên cửa hàng, lấy 4.000.000 đồng và đã sử dụng chi tiêu cá nhân. Đến ngày 09/3/2023, do anh Đ đòi máy tính và do sắp hết hạn cầm cố vào ngày 10/3/2023 nhưng HA không có tiền để chuộc máy tính về trả anh Đ nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của bạn cùng quê là anh Trần Quốc K (Sinh năm 2004; Trú tại: Phường C, Thành phố S, tỉnh S) để lấy tiền chuộc máy tính về trả anh Đ.

Sau đó, khoảng 15 giờ 45 phút ngày 09/3/2023, Hoàng HA nhắn tin cho anh K qua ứng dụng Messenger giả vờ hỏi mượn máy tính của anh K để làm bài tập thuyết trình nhưng anh K nói không có máy tính. Sau đó, do tin tưởng HA nên đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/3/2023, anh K nhắn tin lại cho HA nói là có thể mượn laptop macbook của bạn cùng phòng một lúc để cho HA mượn. Khoảng 23 giờ ngày 09/3/2023, anh K đã mượn và mang chiếc máy tính xách tay hiệu Macbook Air 13 của anh Cà Đức M (Sinh năm 2003; Trú tại: Xã C, huyện M, tỉnh S – là bạn cùng phòng trọ với K) đến đầu ngõ đường Đ, phường M, quận N, thành phố H để cho HA mượn và hẹn HA đến 02 giờ sáng ngày 10/03/2023 trả máy, HA đồng ý rồi cầm máy tính vờ đi vào nhà trọ số F ngõ W đường Đ, anh K định đi cùng H lên phòng để chờ lấy máy thì HA nói dối phòng còn có bạn nữ không tiện, nên anh K không đi cùng H nữa mà quay ra ngoài ngõ đợi. HA đợi anh K đi ra đầu đường thì đã mang máy tính Macbook mượn của K đến cửa hàng ‘‘Cầm đồ XX’’ ở Z Đ, phường M, quận N, thành phố H để cầm cố cho anh Nguyễn Văn H – nhân viên cửa hàng. Anh H kiểm tra máy và hỏi mật khẩu Icloud của máy tính Macbook nhưng HA không biết nên anh H không nhận cầm cố. Thấy vậy, HA bảo anh H cho đổi máy tính Macbook lấy máy tính xách tay Acer Aspire 7 đã cầm cố vào ngày 01/3/2023 để H làm bài tập, đến sáng ngày hôm sau H sẽ mang chiếc máy Acer lại để đổi máy Macbook ra hoặc sẽ nhắn mật khẩu icloud cho anh H và nói với anh Hồng về việc bạn của Hồng Anh đồng ý cho Hồng Anh dùng chiếc máy Macbook để đổi lấy chiếc máy Acer ra nên anh H đồng ý đổi máy tính và không viết giấy cầm cố mới. Sau khi chuộc máy tính, HA đem chiếc laptop Acer Aspire 7 về trả cho anh Nguyễn Hải Đ. Anh K sau khi cho HA mượn máy tính đã đứng ngoài đợi đến khoảng 2 giờ ngày 10/3/2023 để lấy máy tính nhưng do gọi cho HA không được nên đã đi về. Chiều tối ngày 10/3/2023, anh K sang phòng trọ tìm gặp HA đòi máy tính thì HA nói dối đã cho bạn là Phan Thị Thu H2 (Sinh năm 2004; Trú tại: Tổ R, phường C, thành phố S, tỉnh S) mượn và H2 chưa trả, không liên lạc được. Anh K sau đó chở HA đi tìm H2 nhưng không thấy nên đưa HA về phòng trọ của mình tại số M ngách N ngõ F, đường D, phường Q, quận C, thành phố H. Tại đây, HA tự viết giấy xác nhận đang cầm máy tính Macbook của anh K và cam kết đến 17 giờ ngày 11/3/2023 sẽ trả máy tính nếu không sẽ bồi thường. Đến chiều ngày 11/3/2023, HA nhắn tin cho K nói vẫn chưa tìm được H2 và xin sang chiều ngày 13/3/2023 sẽ trả máy. Đến 15 giờ 45 phút ngày 13/3/2023, HA đến phòng trọ của K xin thêm thời gian trả máy tính vì chưa tìm được H2. Lúc này, anh K nghi ngờ HA đã mang máy tính của mình đi cầm cố nên đến Công an phường Q trình báo.

Hoàng HA sau đó đã đến Công an phường Q đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Cơ quan Công an tiến hành dẫn giải HA xác định nơi cầm cố tài sản và đã tiến hành thu giữ vật chứng do anh Phạm Văn T – Sinh năm 1985; Trú tại: phường C, quận B, thành phố H – là quản lý của cửa hàng “Cầm đồ XX” giao nộp.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 máy tính laptop nhãn hiệu Macbook Air màu xám (do anh Phạm Văn T giao nộp);

- 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu hồng, không gắn sim (thu giữ của Hoàng HA).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 118 ngày 14/3/2023 cửa Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy, kết luận: 01 laptop Macbook Air 13 màu xám, dung lượng 512Gb trị giá 14.319.000 đồng.

Ngày 30/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C đã ra Quyết định xử lý vật chứng và tiến hành trao trả lại 01 laptop Macbook Air 13 màu xám, dung lượng 512Gb đã thu giữ cho anh Cà Đức M.

Đối với anh Nguyễn Văn H: Quá trình điều tra xác định anh H khi nhận cầm cố (đổi máy tính) không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chị Phan Thị Thu H2: Quá trình điều tra xác định chị H2 và Hoàng HA đã không liên hệ với nhau từ lâu, chị H2 không biết việc HA chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với hành vi của Hoàng HA đã cầm cố chiếc laptop nhãn hiệu Acer Aspire 7 của anh Nguyễn Hải Đ: Quá trình điều tra xác định HA đã chuộc máy tính và trả cho anh Đ, không có mục đích chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Qúa trình điều tra, đại diện gia đình Hoàng HA đã bồi thường trả cho cửa hàng “Cầm đồ ZZ” (do anh Nguyễn Văn C – Sinh năm 1987; Trú tại: xã H, huyện H, tỉnhN là đại diện) số tiền 4.000.000 đồng.

Về dân sự: Anh Trần Quốc K, anh Cà Đức M không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

Lời khai nhận tội của Hoàng HA phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với tang vật đã thu giữ và tài liệu điều tra khác.

Tại bản cáo trạng số 167/CT- VKS ngày 28/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Hoàng HA bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Hoàng HA khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Hoàng HA đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, quy định tại khoản 1, Điều 174 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Hoàng HA mức án từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 18 đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Vật chứng: tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6s plus màu hồng, không lắp sim (đã qua sử dụng). Trả lại 01 căn cước công dân Hoàng HA cho bị cáo (lưu trong hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Quốc K và anh Cà Đức M không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.

Bị cáo không tham gia tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ ngày 09/3/2023, tại đầu ngõ W Đ, phường M, quận N, thành phố H, Hoàng HA có hành vi gian dối chiếm đoạt chiếc máy tính laptop nhãn hiệu Macbook Air màu xám, dung lượng 512Gb, trị giá 14.319.000 đồng của anh Trần Quốc K.

Bị cáo thành khẩn khai nhận tội. Vật chứng đã thu hồi và trả lại chủ sở hữu. Anh Trần Quốc K và anh Cà Đức M không có yêu cầu bồi thường về dân sự. Anh K có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo Hoàng HA đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại Khoản 1, Điều 174 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng HA thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại; bị cáo đầu thú và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo vẫn đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động Iphone 6s plus màu H, không lắp sim (đã qua sử dụng) liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Hoàng HA (lưu trong hồ sơ vụ án).

[8] Về dân sự: Anh Trần Quốc K và anh Cà Đức M không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên HĐXX không xem xét.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1, Điều 174; Điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Điều 47, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Hoàng HA phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hoàng HA 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Trả tự do cho bị cáo Hoàng HA đang bị tạm giam, nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo Hoàng HA cho Ủy ban nhân dân phường C, thành phố S, tỉnh S để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Về vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6s plus màu hồng, không lắp sim (đã qua sử dụng) (Vật chứng nêu trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo biên bản giao nhận vật chứng số 215 ngày 03/7/2023). Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Hoàng HA (hiện lưu trong hồ sơ vụ án) Về dân sự: Anh Trần Quốc K và anh Cà Đức M không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên HĐXX không xem xét.

Về án phí: Bị cáo Hoàng HA phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 170/2023/HS-ST

Số hiệu:170/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về