Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 393/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 393/2022/HS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 253/2022/TLST - HS ngày 14 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 439/2022/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Xuân T, sinh năm 1962; Trú tại: số nhà X, ngõ HA, phố LD, phường TP, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; Trình độ học vấn: 07/10; Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư xây TH; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là Lê Văn T (đã chết) và mẹ là Nguyễn Thị X (đã chết); Vợ là Nguyễn Thị NA, sinh năm 1965 và có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1990; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 1986 bị Công an quận Đống Đa xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích. Tại bản án số 780, ngày 29/5/1997, Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”, 04 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”; 03 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”. Tổng hợp hình phạt cho cả ba tội là 10 năm tù. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ ngày 24/01/2022; Tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Quang T – Văn phòng luật sư Đặng Sơn và Cộng sự – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1974; Địa chỉ: Phòng X nhà Y tập thể đại học TL, phường TL, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2017, do có nhu cầu tìm kiếm công việc cho Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng MD (gọi tắt là Công ty MD; có địa chỉ trụ sở tại số nhà X, ngõ Y, đường KĐ, phường HĐ, quận TX, thành phố Hà Nội) nên chị Nguyễn Thị Kim N (sinh năm X; trú tại phòng 212, nhà 6A, tập thể Đại học TL, phương Trung Liệt, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội) là thành viên cổ đông của Công ty MD có quen biết với Lê Xuân T (sinh năm 1962; trú tại số nhà X, ngõ HA, phường TP, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội). Quá trình tiếp xúc với chị N, mặc dù không hề có chức năng nhiệm vụ hoặc mối quan hệ quen biết gì nhưng Lê Xuân T vẫn tự giới thiệu rằng T có quan hệ với nhiều lãnh đạo cấp cao của nhà nước nên có thể chạy xin dự án xây dựng cho nhiều người.

Khoảng cuối tháng 5/2017, Lê Xuân T nhận được thông tin về hồ sơ Dự án đường 991B từ Quốc lộ 51 đến hạ lưu cảnh cái Mép, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu do Đỗ Văn Đ (sinh năm 1990; trú tại xã BL, huyện HH, tỉnh Bắc Giang) cung cấp. Sau đó ngày 04/12/2017, anh Đ gửi từ email X@gmail.com đến email Y@gmail.com của T. Sau khi nhận được thông tin, T chuyển tiếp thông tin của dự án đến cho chị Nguyễn Thị Kim N vào địa chỉ email nguyentkngan.88@gmail.com, T hứa hẹn với chị N rằng T có quan hệ quen biết với nhiều lãnh đạo Ban quản lí Dự án đường 991B từ Quốc Lộ 51 đến hạ lưu cảng cái Mép, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; đồng thời T cam kết sẽ xin được dự án cho cho Công ty MD thi công với chi phí là 30.000 USD trong thời hạn 45 ngày. Tin tưởng những thông tin do T đưa ra là thật, ngày 09/6/2017 chị N đã rủ anh Nguyễn Văn Huân (sinh năm 1963; trú tại thôn Nhũ, xã Quang Khải, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương) đi cùng đến gặp T tại phòng 823-H20 tập thể Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội (nơi T thuê ở) để đưa cho T số tiền là 30.000 USD (theo tỷ giá quy đối của N hàng nhà nước Việt Nam ngày 09/6/2017 là tương đương với 672.180.000 đồng). Sau đó, T viết cho chị N 01 bản cam kết có nội dung: “Hà Nội ngày 09/6/2017, tôi Lê Xuân T địa chỉ 823-H20 Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội có nhận của chị Nguyễn Thị Kim N với số tiền là 30.000 Đô la Mỹ để bút phê đường 991 Vũng Tàu cho chị N thời hạn hoàn tất là 45 ngày kể từ ngày 09/6/2017 CMND 012385845 cấp 13/8/20…/HN, ký ghi họ tên Lê Xuân T.” Sau khi nhận tiền, T không làm bất cứ thủ tục gì để nộp hồ sơ nhận thầu cho Công ty MD mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên. Khi thấy T không thực hiện được công việc như đã hứa hẹn, chị N đã nhiều lần đòi tiền thì T mới trả lại được cho chị N số tiền là 140.000.000 đồng. Đến đầu năm 2018, chị N yêu cầu T viết 01 tờ giấy cam kết có nội dung hứa sẽ trả lại cho chị N nốt số tiền 560.000.000 đồng còn lại vào ngày 15/02/2018 âm lịch. Tuy nhiên, sau đó T đã bỏ trốn.

Ngày 10/4/2019, chị Nguyễn Thị Kim N đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội để trình báo. Ngày 06/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can đối với Lê Xuân T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do Lê Xuân T bỏ trốn nên ngày 17/6/2020, Cơ qua điều tra đã ra quyết định truy nã đối với T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 24/01/2022, Lê Xuân T đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội để đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ đồ vật, tài liệu do chị Nguyễn Thị Kim N giao nộp như sau:

- 01 giấy viết tay đề ngày 09/6/2017 nội dung “Lê Xuân T; địa chỉ số nhà 823- H20 Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội có nhận của chị Nguyễn Thị Kim N số tiền là 30.000 USD…” - 01 giấy viết tay không đề ngày nội dung :“ Lê Xuân T có vay của cô N số tiền 560.000.000 đồng…” Tại bản Kết luận giám định số 4648/KLĐG-PC09(Đ4) ngày 24/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

“…Mẫu giám định gồm:

- 01 giấy viết tay đề ngày 09/6/2017 nội dung “Lê Xuân T; địa chỉ số 823-H20 Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội có nhận của chị Nguyễn Thị Kim N số tiền là 30.000 USD …’( ký hiệu A1).

- 01 giấy viết tay không đề ngày nội dung “ Lê Xuân T có vay của cô N số tiền 560.000.000 đồng…”( ký hiệu A2).

Mẫu so sánh gồm:

- Tờ khai chứng minh nhân dân của Lê Xuân T ( sinh ngày 31/5/1962; CMND số 012385845; HKTT tại số X ngõ HA, Phường TP, quận ĐĐ, Hà Nội) đề ngày 16/10/2000 (ký hiệu M1).

- Tờ khai chứng minh nhân dân của Lê Xuân T (Sinh ngày 31/5/1962; CMND số 012385845; ở tại số nhà X, ngõ HA, phường TP, quận ĐĐ, Hà Nội) đề ngày 13/9/2005( ký hiệu M1).

Kết luận:

- Chữ viết, chữ ký đứng tên Lê Xuân T trên các mẫu cần giám định ký hiệu A1,A2) với chữ viết tại các mục từ mục 5 đến mục 13, từ mục 15 đến mục 17; chữ ký, chứ viết dòng họ tên Lê Xuân T dưới mục “ NGƯỜI KHAI KÝ TÊN” trên mẫu so sánh (ký hiệu M1) và chữ ký dưới mục “ NGƯỜI KHAI KÝ TÊN” trên mẫu so sánh ( ký hiệu M2) là chữ do cùng một người viết ra.

- Không sử dụng chữ viết trên tài liệu (ký hiệu M2) làm mẫu so sánh do chữ viết khác dạng.” Tại phiếu trả lời xác minh ngày 23/3/2019 của Công an phường An Bình, quận Ninh Kiều, cung cấp: “….Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng thương mại TH hiện không có hoạt động tại địa chỉ số nhà X phố HQV, khu vực 4, phường AB, quận NK, thành phố Cần Thơ. Tại địa chỉ trên không có Lê Xuân T sinh sống tại đó. Hiện tại tạm trú ở đâu địa phương không nắm được”.

Tại Công văn số 5577/UBND-VP ngày 11/6/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cung cấp:

- Dự án đường 991B từ Quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phê duyệt dự án đầu tư Quyết định số 1661/QĐ-UBND ngày 29/7/2011 và phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư tại Quyết định số 2969/QĐ-UBND ngày 28/10/2016. Dự án này Uỷ ban nhân dân giao cho Ban Quản lý dự án giao thông khu vực cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu làm chủ đầu tư.

- Qua rà soát các đơn vị tham gia dự thầu thì Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng MD không nộp hồ sơ tham gia dự thầu và không trúng thầu thi công gói thầu nào trong các gói thầu thuộc dự án đường 991B từ Quốc Lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Tại Công văn số 371/CTC ngày 23/9/2019 của Chi nhánh Công ty cổ phần cảng Sài Gòn-Xí nghiệp xây dựng công trình cảng, cung cấp:

“…-Ngày 11/01/2017, Xí nghiệp có lập hồ sơ xin tham gia dự thầu thi công gói thầu thuộc dự án đường 991B từ Quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái mép, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Đơn vị chưa gặp, chưa liên hệ cung cấp thông tin dự án trên với ông Lê Xuân T”.

Tại Công văn số 3197/UBND-VP ngày 03/4/2020 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cung cấp:

“….Dự án đường 991B từ Quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái mép, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu hiện nay chưa kết thúc thi công.

- Đến nay, Công ty đầu tư xây dựng thương mại TH không nộp hồ sơ tham gia dự thầu và không trúng thầu thi công gói thầu nào trong dự án đường 991B từ quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Ông Lê Xuân T không phải là người đại diện cho công ty nào khác tham gia dự thầu thi công Dự án đường 991B từ quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu”.

- Đối với Đỗ Văn Đ và Trần Gia H (sinh năm 1977; trú tại phòng X, số Y,ngõ Z, đường CT, phường VQ, quận HĐ, Hà Nội). Do Đ chỉ cung cấp thông tin về dự án đường 991B từ quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép, huyện Tân Thành,tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu qua email cho Lê Xuân T sau khi Đạt nhận được thông tin này từ H. Cả H và Đ đều không biết và không có liên quan gì đến việc Lê Xuân T chiếm đoạt tiền của chị Nguyễn Thị Kim N từ thông tin dự trên nên Đạt và Hoà không đồng phạm với T trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Cáo trạng số 230/CT-VKS-P2 ngày 27/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Xuân T theo tội danh và điều luật như bản Cáo trạng đã công bố. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Xuân T từ 10 năm đến 12 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Buộc bị cáo Lê Xuân T phải trả lại cho bị hại số tiền còn chiếm đoạt là 560.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng: Không.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã bồi thường khắc phục một phần tài sản chiếm đoạt. Bị cáo đã đầu thú để hưởng khoan hồng của pháp luật và hiện nay tuổi cao, sức yếu. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt thấp hơn mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

- Bị cáo trình bày: Công nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trả lại một phần tiền cho bị hại. Bị cáo sẽ cố gắng bồi thường nốt số tiền còn chiếm đoạt. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại: Toà án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ, bị hại có đơn đề nghị Toà án xử vắng mặt. Quá trình điều tra và trước khi mở phiên tòa bị hại đã có lời khai và đã có ý kiến thể hiện quan điểm. Xét thấy việc vắng mặt bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tội danh và hình phạt:

- Về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và những người liên quan. Đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cũng như căn cứ quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bản thân bị cáo Lê Xuân T không có chức năng, nhiệm vụ hoặc bất cứ mối quan hệ quen biết nào có thể thực hiện hoặc tác động cho Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng MD được trúng thầu thi công dự án đường 991B từ quốc lộ 51 đến hạ lưu cảng Cái Mép, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhưng do cần tiền chi tiêu cá nhân, nên bị cáo đã đưa ra những thông tin gian dối cho bà Nguyễn Thị Kim N (là cổ đông của Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng MD) rằng bản thân bị cáo có mối quan hệ quen biết với nhiều lãnh đạo cấp cao của nhà nước và có mối quan hệ với nhiều lãnh đạo của Ban quản lý dự án đường 991B, đồng thời bị cáo cam kết với bà N sẽ xin được cho Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và xây dựng MD trúng thầu thi công dự án đường 991B với chi phí là 30.000 USD trong thời hạn là 45 ngày.

Tin tưởng những thông tin mà T đưa ra là thật nên ngày 09/6/2017, tại số 823 H20 TM, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là nơi T thuê trọ bà N đã giao cho T 30.000 USD (Theo tỷ giá quy đổi của N hàng nhà nước Việt Nam ngày 09/6/2017 tương đương 672.180.000 đồng) để xin trúng thầu thi công dự án. Sau khi nhận tiền, T đã bỏ trốn. Sau nhiều lần bị bà N tìm kiếm để đòi lại tiền, T đã trả lại 140.000.000 đồng và viết giấy cam kết, hiện còn chiếm đoạt của bà N 560.000.000 đồng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung: Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã phạm tội với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi đó còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 1986 bị xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích; Năm 1997, đã bị xử phạt 10 năm tù về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử nhận định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường, khắc phục một phần số tiền chiếm đoạt; Sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú; Bị cáo hiện sức khoẻ yếu nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo; sau khi xem xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Buộc bị cáo phải trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Kim N số tiền còn chiếm đoạt là 560.000.000 đồng. [4] Về xử lý vật chứng: Không.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố: bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Xuân T 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/01/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

[2] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Áp dụng các Điều 46, 48 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 5 Điều 275; Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Lê Xuân T phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim N số tiền là 560.000.000 (Năm trăm sáu mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lê Xuân T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 26.400.000 (Hai mươi sáu triệu, bốn trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, án xử công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 393/2022/HS-ST

Số hiệu:393/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về