Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 341/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 341/2023/HS-PT NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 333/2022/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thị Thùy T do có kháng cáo của bị cáo, bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có kháng cáo: Võ Thị Thùy T, sinh năm: 1972 tại Cần Thơ; Nơi thường trú: Số 145/RC tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: 06/12; con ông Võ Văn Đ, sinh năm: 1942 (chết) và bà Lê Thị K, sinh năm 1950; có chồng là Nguyễn Cẩm L, sinh năm: 1969 và 01 người con, sinh năm 1989; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/02/2021 đến nay (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Thanh T1, luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (có mặt).

Bị hại có kháng cáo: Bà Văn Thị Trúc G, sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Số N3 – N5, tổ 8, ấp Đ, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại:

1/ Bà Lê Thị Ngọc D, Đoàn Luật sư Thành phố Cần Thơ (vắng mặt)

2/ Ông Nguyễn Quốc K, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Tô Phượng V, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

2/ Bà Nguyễn Thị Cẩm L, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: Số 145/RC, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

3/ Ông Phạm Thành Mỹ, sinh năm 1972.

Nơi cư trú: Số 202B/RC, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Văn G1, sinh năm 1956;

Nơi cư trú: Ấp An Thạnh, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

2/ Bà Nguyễn Thị Bích T2, sinh năm 1952;

Nơi cư trú: Số 47 đường N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

3/ Bà Sử Thị Kim T3, sinh năm 1964;

Nơi cư trú: Số 148/RC, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

4/ Ông Bạch Văn N, sinh năm 1964;

Nơi cư trú: Số 143/RC, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

5/ Ông Nguyễn Hoàng N1, sinh năm 1978;

Nơi cư trú: Số 174/RC, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

6/ Bà Lê Thị T4, sinh năm 1984;

Nơi cư trú: Tổ 8, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

7/ Ông Nguyễn Văn U, sinh năm 1976;

Nơi cư trú: Số 153, tổ 6, khu vực B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ (có mặt).

8/ Bà Vũ Thị T5, sinh năm 1965;

Nơi cư trú: Tổ 9, ấp C, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Văn Thị Trúc G và Võ Thị Thùy T có mối quan hệ họ hàng (Tlà vợ chú ruột của G). T biết bà G có tiền và muốn kinh doanh mua bán đất tại thành phố Cần Thơ nên T nảy sinh ý thức chiếm đoạt tiền của bà G. Lợi dụng mối quan hệ thân thuộc này và sự tin tưởng của bà G, T nói là có biết một số người bà con ở gần nơi T ở đang cần tiền nên kêu bán đất giá rẻ, kêu G mua để bán lại với giá cao hơn, muốn mua thì đưa tiền T mua dùm. Tin tưởng lời T là thật nên G đồng ý chuyển giao tiền cho T để mua bán đất. Sau khi nhận được tiền, T không thực hiện mua đất như thoả thuận với G mà dùng vào việc tiêu xài cá nhân, cụ thể:

1/ Lần thứ nhất: Khoảng tháng 6/2018, T nói với G là ông Nguyễn Văn G1 (Hai Gõ) thường trú tại ấp An Thạnh, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ có bán khoảng 3.000m2 đất với giá 800.000.000 đồng/1000m2, tương đương 2.400.000.000 đồng, tọa lạc tại tổ 6, khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ và đồng ý cho người mua trả nhiều lần trong thời gian 02 năm; Hết thời hạn 02 năm trả được bao nhiêu tiền thì đo bao nhiêu đất. G đồng ý mua và đã chuyển tiền cho T nhiều lần để mua đất.

2/ Lần thứ hai: Khoảng tháng 6/2019, T điện thoại nói với G có nhà số 47 đường Nguyễn Thị Minh Khai thuộc quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ kêu bán với giá 5.400.000.000 đồng và cho trả dần trong thời hạn 01 năm. G đồng ý mua và đã chuyển giao tiền nhiều lần cho T.

3/ Lần thứ ba: Khoảng tháng 4/2019 T nói với G là bà Sử Thị Kim T3 (6 Ngoàn), thường trú số 148A/RC tổ 6, khu vực Bình Thường, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ có kêu bán 2000m2 đất với giá 600.000.000 đồng/1000m2, tương đương 1.200.000.000 đồng và cũng cho trả nhiều lần trong thời hạn 01 năm. G đồng ý mua và đã chuyển giao tiền nhiều lần cho T.

4/ Lần thứ tư: Khoảng tháng 7/2019, T nói dối với G là có ông Bạch Văn N (Năm Nuôl), thường trú số 143/RC khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ kêu bán 1.500m2 đất với giá 600.000.000 đồng/1000m2, tương đương 900.000.000 đồng và cho trả dần trong thời hạn 01 năm; G đồng ý mua và đã nhiều lần chuyển giao tiền cho T.

5/ Lần thứ năm: Khoảng tháng 8/2019, T nói dối là có ông Nguyễn Hoàng N1 (Út Nam), thường trú số 174/RC tổ 6, khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ kêu bán 1.000m2 đất với giá 800.000.000 đồng/1000m2 và đồng ý cho trả trong thời hạn 01 năm; G đồng ý mua và đã nhiều lần giao tiền cho T.

6/ Lần thứ sáu: Khoảng tháng 9/2019, T lại nói dối với G là bà Lê Thị T4 (Hai Tâm), thường trú tổ 8 khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ có kêu bán 2.000m2 đất với giá 800.000.000 đồng/1000m2, tương đương 1.600.000.000 đồng và đồng ý cho trả nhiều lần trong thời hạn 01 năm; G đồng ý mua và đã nhiều lần chuyển giao tiền cho T.

Đến tháng 4/2020 G yêu cầu T đưa giấy tờ đất đã mua cho G xem thì T hứa hẹn nhiều lần và đưa ra thông tin gian dối như thủ tục chưa xong. Đến tháng 9/2020 thì G phát hiện T lừa đảo nên làm đơn tố cáo.

Quá trình điều tra Võ Thị Thuỳ T chỉ thừa nhận đã đưa ra thông tin gian dối và nhận tiền từ bị hại G thông qua 02 hình thức là chuyển tiền vào tài khoản số 0700666X8 của Tô Phượng V mở tại ngân hàng Sacombank chi nhánh Cần Thơ, phòng giao dịch Cái Răng và chuyển tiền qua dịch vụ Viễn thông Viettel với tổng số tiền nhận của G là 2.900.000.000 đồng. Đồng thời phủ nhận nợ G 10.200.000.000 đồng, cho rằng khi ký giấy cam kết đã bị đe dọa.

Đến ngày 02/10/2020, T đến Công an phường Long Tuyền, quận Bình Thủy để tự thú. Ngoài ra, T còn khai nhận đã đưa cho Nghiêm là em ruột của G số tiền 70.000.000 đồng và có chuyển lại cho G mượn số tiền 165.000.000 đồng (bút lục 52-53).

Bị hại Văn Thị Trúc G khai nhận đã chuyển giao tiền cho T bằng 03 hình thức là chuyển tiền vào tài khoản số 0700666X8 của Tô Phượng V mở tại ngân hàng Sacombank chi nhánh Cần Thơ theo yêu cầu của T; chuyển tiền qua dịch vụ Viễn thông Viettel và giao tiền trực tiếp cho T với tổng số tiền là 10.200.000.000 đồng. Đồng thời G giao nộp “Đơn xin cam kết” có chữ ký và dấu lăn tay của T với nội dung cam kết đến ngày 15/9/2020 sẽ trả lại tiền cho G 10.200.000.000 đồng.

Kết luận giám định số 24/KLGĐ-PC09(ĐV) ngày 21/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận về đối tượng giám định: 02 dấu vân tay màu đỏ, phía dưới mục “Người cam kết” ghi tên Võ Thị Thuỳ T trên Đơn xin cam kết, ngày 04/9/2020, so với dấu vân tay trên danh chỉ bản số 028, mang tên Võ Thị Thuỳ T, sn 1972; Nơi cư trú: số 145/RC khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ; lập ngày 09/02/2021 tại PC11- công an thành phố Cần Thơ, về việc: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm mẫu so sánh là dấu vân tay của cùng một người in ra.

Kết luận giám định số 117/KLGĐ-PC09(TL) ngày 23/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận về đối tượng giám định:

1/ Chữ ký trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký của Võ Thị Thùy T trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người ký ra.

2/ Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết của Võ Thị Thùy T trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết ra (bút lục 49).

Quá trình thu thập chứng cứ, kiểm tra tin nhắn còn lưu lại trên điện thoại Nokia 105, màu đen có sim số X464663 của Võ Thị Thùy T có thông tin gửi từ dịch vụ Viễn thông Viettel yêu cầu T đến nhận tiền nhiều lần với số tiền 1.306.500.000 đồng (bút lục 117-119).

Ngân hàng Sacombank, chi nhánh Cần Thơ, phòng giao dịch Cái Răng cung cấp sao kê số tài khoản 0700666X8 của Tô Phượng V thời gian từ tháng 6/2018 đến 20/10/2020 có nhận số tiền 404.000.000 đồng từ G chuyển đến cho T nhiều lần (bút lục 122 – 132).

Trung tâm Viễn thông Viettel Cần Thơ cung cấp thông tin và sao kê các giao dịch của Võ Thị Thùy T sử dụng số điện thoại X.464.663 từ 28/9/2018 đến 23/5/2020, T đã nhiều lần đến nhận tiền từ G chuyển là 2.618.500.000 đồng (bút lục 135-151b) .

Đối với Tô Phượng V là người làm nghề chạy xe mô tô khách (xe ôm) và người cùng địa phương với T. Đầu năm 2020, T hỏi mượn tài khoản ngân hàng của V nhận tiền của G gửi về nói “để làm công chuyện”. V đồng ý và đã trực tiếp rút số tiền 404.000.000 đồng đưa cho T nhưng V không biết tiền do T lừa đảo có được nên không có cơ sở xử lý (bút lục 223-226).

Đối với hành vi đánh bạc của bị can Võ Thị Thùy T, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Cần Thơ đã chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ để điều tra xử lý theo thẩm quyền (bút lục 286-287).

Vật chứng tạm giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, bên trong có sim X464663, IMEI: 358925076223037; tạm giữ của Phạm Thành Mỹ 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia, màu đen, bị bể nắp ốp lưng và màn hình không còn sử dụng được, bên trong không có sim và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 3.1, màu đen, bên trong có sim 0766X81, IMEI 1: 3533 78098 294 658, IMEI 2: 3533 780983 74658, đã qua sử dụng; 01 USB chứa nội dung lời khai của bị can Võ Thị Thùy T; tiền 50.000.000 đồng – đã nộp vào tài khoản tạm giữ của Công an thành phố Cần Thơ.

Tại Cáo trạng số 41/CT-VKS-P2 ngày 22-11-2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố Võ Thị Thùy T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ quyết định:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị Thùy T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Thùy T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự;

Buộc bị cáo Võ Thị Thùy T bồi thường cho bị hại Văn Thị Trúc G số tiền 10.200.000.000 đồng (Mười tỷ hai trăm triệu đồng).

+ Chuyển số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) tự nguyện khắc phục của phía bị cáo thành tiền bồi thường.

Bị hại Văn Thị Trúc G được nhận số tiền 50.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.

+ Bị cáo Võ Thị Thùy T phải bồi thường tiếp số tiền là 10.150.000.000 đồng (Mười tỷ một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) nếu người có nghĩa vụ chưa thi hành xong nghĩa vụ của mình thì phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và phần nghĩa vụ chưa thi hành.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05/5/2022 bị hại Văn Thị Trúc G kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại các nội dung liên quan đến việc tiêu thụ số tiền bị cáo lừa đảo.

Ngày 10/5/2022 bị cáo Võ Thị Thùy T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 09/5/2023, bị hại Văn Thị Trúc G nộp đơn (trực tiếp) tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Võ Thị Thùy T trình bày yêu cầu kháng cáo như sau: Bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo chiếm đoạt số tiền thực tế chỉ 2.900.000.000đ (hai tỷ chín trăm triệu đồng), không phải là 10.200.000.000đ( mười tỷ hai trăm triệu đồng) như án sơ thẩm đã tuyên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

+ Đối với bị hại Văn Thị Trúc G có đơn kháng cáo nhưng đã có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo vào ngày 09/5/2023. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị hại – Văn Thị Trúc G.

+ Đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Võ Thị Thùy T: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai thừa nhận của bị cáo T thì bị cáo đã viết cam kết số tiền nhận của bị hại G là 10.200.000.000 đồng. Bị cáo T cho rằng thực tế bị cáo chỉ chiếm đoạt của bị hại số tiền 2.900.000.000đ (hai tỷ chín trăm triệu đồng), việc bị cáo viết cam kết trên là do bị hại G ép buộc nhưng không cung cấp được chứng cứ, chứng minh.

Bản án sơ thẩm đã xác định bị cáo T đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của bị hại Văn Thị Trúc G nhiều lần với tổng số tiền 10.200.000.000 đồng và xử phạt bị cáo 17 (mười bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng qui định của pháp luật.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo T không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó yêu cầu kháng cáo của bị cáo T là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T trình bày tranh luận: Bị cáo đồng ý với bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì số tiền bị cáo chiếm đoạt là 2.900.000.000. Bản án sơ thẩm nhận định cho rằng bị cáo đã viết biên nhận thừa nhận của bị hại số tiền 10.200.000.000 đồng nên qui kết bị cáo chiếm đoạt số tiền trên. Chúng tôi cho rằng, việc bị cáo viết giấy cam kết trên là bị ép buộc, vì trong một ngày mà bị cáo ký 5 giấy biên nhận nhưng không thu hồi các biên nhận cũ. Bị cáo T biết mình đã có hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn đến cơ quan điều tra tự thú để khai rõ về số tiền trên. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, áp dụng điểm b, s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là 12 (mười hai) năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo và xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1 ]. Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/5/2022 bị hại Văn Thị Trúc G kháng cáo. Ngày 10/5/2022, bị cáo Võ Thị Thùy T kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại nộp trong hạn luật định nên được thụ lý, xét xử theo thủ tục phúc thẩm được quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[ 2 ]. Đối với bị hại – Văn Thị Trúc G, ngày 09/5/2023 đã nộp đơn (trực tiếp) tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Xét thấy, việc rút yêu cầu kháng cáo của bị hại G hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị hại Văn Thị Trúc G.

[ 3 ]. Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo Võ Thị Thùy T.

[3.1]. Trên cơ sở lời khai của bị cáo, bị hại, lời khai của những người làm chứng, phù hợp với với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa có cơ sở xác định: Bị cáo bị cáo Võ Thị Thùy T đã lợi dụng mối quan hệ họ hàng và biết bị hại Văn Thị Trúc G có tiền muốn kinh doanh mua bán đất tại thành phố Cần Thơ nên đã nảy sinh ý thức chiếm đoạt tiền của bị hại. Cụ thể, trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến cuối năm 2019, bị cáo T nhiều lần đưa ra thông tin không có thật với bị hại G về việc các chủ sử dụng, sở hữu nhà đất muốn chuyển nhượng nhà, đất cho trả tiền trong hạn từ 01 đến 02 năm. Mục đích để bị hại tin và chuyển tiền cho bị cáo T mua đất nhằm chiếm đoạt tiền của bị hại. Bị cáo T cũng thừa nhận bị cáo đã có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền của bị hại G nhưng tổng số tiền chiếm đoạt thực chất chỉ 2.900.000.000 đồng.

[3.2]. Xét thấy, hành vi gian dối của bị cáo T có trước thời điểm bị hại chuyển giao tài sản, đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo qui định tại Điều 174 BLHS. Với tổng số tiền chiếm đoạt từ từ 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) trở lên thuộc trường hợp qui định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo qui định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS là đúng người, đúng tội.

[3.3]. Việc bị cáo T kháng cáo cho rằng bị cáo chỉ chiếm đoạt của bị hại G nhiều lần với tổng số tiền là 2.900.000.000 đồng thông qua các hình thức chuyển khoản qua dịch vụ Viettel và tài khoản của ông Tô Phượng V tại Ngân hàng Sacombank. Bị cáo T không thừa nhận việc chiếm đoạt số tiền 10.200.000.000 đồng như các cơ quan tiến hành tố tụng đã đã kết luận, truy tố, xét xử, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác minh tại Ngân hàng theo số tài khoản của ông Tô Phượng V số tiền 404.000.000đ và số tiền bị hại G chuyển cho bị cáo T qua Trung tâm Viễn Thông Viettel Cần Thơ 2.618.500.000đ, tổng cộng là 3.022.500.000đ. Như vậy, số tiền này cũng không khớp với lời khai của bị cáo T. Trong khi, bị cáo T cũng thừa nhận ngày 04/9/2020, bị cáo T đã ký “Đơn xin cam kết” với nội dung: “Võ Thị Thùy T có nhận của Văn Thị Trúc G số tiền 10.200.000.000đ để mua đất”. Bị cáo T và luật sư bào chữa cho rằng bị cáo bị ép buộc, bị đe dọa nên mới ký nhận số nợ trên. Tuy nhiên, bị cáo T và luật sư cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh về việc bị cáo T bị ép buộc ký nhận cam kết trên. Hồ sơ thể hiện Cơ quan Điều tra có cho đối chất giữa các bên để làm rõ việc bị hại có ép buộc bị cáo ký cam kết xác nhận số tiền 10.200.000.000đ hay không nhưng qua đối chất cũng không thể hiện được việc bị cáo bị ép buộc ký giấy cam kết này. Do đó không có cơ sở chấp nhận ý kiến trình bày của bị cáo và luật sư cho rằng bị cáo T bị ép buộc lý giấy cam kết trên.

[3.4]. Như vậy, bị cáo T đã có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của bị hại với tổng số tiền chiếm đoạt là 10.200.000.000 đồng như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử là có căn cứ, đúng qui định của pháp luật. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

[3.5]. Bị cáo T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là “Tự thú” và gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục số tiền 50.000.000 đồng. Đây là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bản án sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử phạt bị cáo T 17 (mười bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là đã đúng pháp luật.

[3.6]. Tại cấp phúc thẩm, phía bị cáo Võ Thị Thùy T không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới so với các tình tiết giảm nhẹ đã được cấp sơ thẩm áp dụng. Từ sự phân tích tại các mục từ [ 3 ] đến mục [3.6], Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Thị Thùy T và đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm.

Cần giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Võ Thị Thùy T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị hại - Văn Thị Trúc G.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Thùy T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị Thùy T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Thùy T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/02/2021.

3. Án phí hình sự phúc thẩm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Thị Thùy T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 341/2023/HS-PT

Số hiệu:341/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về