Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 192/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 192/2023/HS-PT NGÀY 16/06/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, mở phiên tòa xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 199/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Võ Bá L; do có kháng cáo của bị cáo và bị hại Trần Thị T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo có kháng cáo:

Võ Bá L, sinh ngày 06-8-1972, tại huyện N, tỉnh Quảng Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: làm nông và mua bán đất đai; trình độ học vấn: lớp 9/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Võ K (chết) và bà Vương Thị T (chết); có vợ là Bùi Thị N, sinh năm 1977 và có 03 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23-4-2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Bá L theo yêu cầu của bị cáo: Luật sư Võ Đình Đ và Luật sư Ngô Thị Tùng L1 - Công ty L2, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ; địa chỉ: Tầng D, Số F Đ, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Thành T1, sinh năm 1982 và bà Trần Thị T2, sinh năm 1985; địa chỉ: thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại bà Trần Thị T2: Luật sư Trần Hải Á - Văn phòng Luật sư Đỗ Thành N1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Đ; địa chỉ: Số A Đ, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC01) Công an tỉnh Q tiếp nhận đơn của bà Trần Thị T2 tố cáo Võ Bá L có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra xác định được như sau:

Thửa đất số 254, tờ bản đồ số 26 có diện tích 732m2, trong đó có 300m2 đất ở thuộc thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam do hộ bà Nguyễn Thị Đ1 (sinh năm 1933, trú tại: Thôn L, xã T, huyện N) đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số K112022, do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện N cấp ngày 01/8/1998. Đến ngày 08/9/2010, bà Đ1 chuyển quyền sử dụng đất thửa đất số 254 cho ông Nguyễn Thanh T3 (sinh năm 1968, là con ruột của bà Đ1) theo hình thức tặng cho. Bà Ngô Thị Phương T4 (sinh năm 1986, trú tại: K, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam) khai nhận vào năm 2014 đã mua lại lô đất ở với diện tích 200m2 trong thửa đất số 254 của ông Nguyễn Thanh T3 nhưng bà T4 chưa làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi ông T3 bán đất cho bà T4 thì có viết giấy và đưa cho bà T4 giữ GCNQSDĐ số K112022. Năm 2018, bà T4 chuyển nhượng lô đất có diện tích 200m2 đã mua của ông T3 trước đó cho bà Phạm Thị V (sinh năm 1982, trú Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam) với giá 240.000.000 đồng và đưa cho bà V 01 tờ giấy bán đất từ ông T3 bán cho bà T4 và 01 GCNQSDĐ mang tên bà Nguyễn Thị Đ1. Bà V xem xong các giấy tờ thì trả lại GCNQSĐĐ cho bà T4, còn bà V giữ lại tờ giấy bán đất. Sau đó, bà V môi giới cho Võ Bá L mua lại lô đất trên từ bà T4 với giá 280.000.000 đồng.

Đến tháng 4/2019, thông qua giới thiệu của bà Ngô Thị Phương T4, vợ chồng bà Trần Thị T2 và ông Nguyễn Thành T1 thỏa thuận với Võ Bá L về việc mua lại lô đất có diện tích 200m2(nằm trong thửa đất số 254 của ông Nguyễn Thanh T3) với giá 800.000.000 đồng và L là người chịu trách nhiệm làm thủ tục giấy tờ gồm việc tách thửa và thủ tục chuyển nhượng lô đất đứng tên vợ chồng bà T2. Ngày 26/4/2019, bà T2 đặt cọc cho Võ Bá L số tiền 400.000.000 đồng, Lương hẹn với vợ chồng bà T2 01 tháng sau sẽ có GCNQSDĐ. Đến tháng 05/2019, bà T2 gặp Võ Bá L để hỏi về giấy tờ đất, L yêu cầu bà T2 tiếp tục chuyển thêm cho L số tiền 100.000.000 đồng thì bà T2 đồng ý. Như vậy, bà Trần Thị T2 đã đưa cho Võ Bá L với tổng số tiền là 500.000.000 đồng.

Vào tháng 10/2019, Võ Bá L liên hệ với cán bộ Địa chính xã T, huyện N để làm thủ tục tách thửa đối với thửa đất mà L bán cho vợ chồng bà T2 nhưng sau đó L không làm nữa. Bản thân L cũng biết được theo Chỉ thị 06/CT-UBND ngày 02/7/2018 và Chỉ thị số 19/CT-UBND ngày 13/11/2020 của UBND tỉnh Q thì thửa đất số 254, tờ bản đồ số 26 thuộc thôn L, xã T, huyện N không được phép tách thửa.

Đồng thời, UBND xã T đã thực hiện việc niêm yết các văn bản trên tại bảng niêm yết các thủ tục hành chính xã T và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương.

Thời gian sau đó, Võ Bá L liên hệ với người tên K1 Lg không rõ lai lịch cụ thể) thông qua mạng xã hội Zalo, để trao đổi, thỏa thuận về việc làm GCNQSDĐ lô đất trên cho vợ chồng bà Trần Thị T2, ông Nguyễn Thành T1 với giá 15.000.000 đồng. Bị cáo L đến nhà bà T4 lấy GCNQSDĐ, sổ hộ khẩu và Giấy chứng minh nhân dân (CMND) mang tên Nguyễn Thanh T3, 01 giấy bán đất từ ông Nguyễn Thanh T3 cho bà Ngô Thị Phương T4, L tiếp tục đến nhà bà T2 lấy sổ hộ khẩu và giấy CMND của vợ chồng bà T2, ông Võ Bá Lụp hình các giấy tờ trên và gửi hình ảnh qua Z cho K1. Khoảng hơn một tháng sau, K1 gọi điện thoại nói với L là đã gửi GCNQSDĐ về cho L qua đường bưu điện. L đến Bưu điện huyện N nhận được “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT số CH369699 mang tên ông Nguyễn Thành T1, sinh năm 1982, CMND số 20xxx4766, địa chỉ thường trú: L, T, N, Quảng Nam và bà Trần Thị T2, sinh năm 1985, CMND số 20xxx4811, địa chỉ thường trú: L, T, N, Quảng Nam, ghi ngày cấp: 11/3/2018, cơ quan cấp: UBND huyện N, số vào sổ cấp GCN: CH02234; ký đứng tên Trương Văn T5 dưới mục “KT CHỦ TỊCH”. Võ Bá L giao GCNQSDĐ này cho vợ chồng bà T2 và bà Thu thanh t tiếp cho L số tiền 300.000.000 đồng.

Đến tháng 8/2020, bà Trần Thị T2 nghi ngờ GCNQSDĐ mà Võ Bá L giao cho vợ chồng bà là giả nên đến Chi nhánh Văn phòng Đ3 để kiểm tra thì phát hiện là GCNQSDĐ này không có hồ sơ gốc. Sau đó, bà T2 đã gửi đơn tố cáo hành vi của Võ Bá L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra CSĐT Công an tỉnh Q. Kết quả giám định:

GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT số CH369699 mang tên ông Nguyễn Thành T1, sinh năm 1982, CMND số 20xxx4766, địa chỉ thường trú: L, T, N, Quảng Nam và bà Trần Thị T2, sinh năm 1985, CMND số 20xxx4811, địa chỉ thường trú: L, T, N, Quảng Nam; Thửa đất số 254, tờ bản đồ số 26, diện tích 200m2 địa chỉ tại thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam do ông Trương Văn T5 - Phó Chủ tịch UBND huyện N ký ngày 11/3/2018, số vào sổ cấp GCN: CH02234, do bà Trần Thị T2 giao nộp.Theo Kết luận giám định số 13/PC09 ngày 23/02/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh Q xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này là giả.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Bá L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Về hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174;các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Võ Bá L 07(Bảy) năm tù tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Võ Bá L 02 Hi) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 09 Cn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam ngày 23/4/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và thông báo về quyền kháng cáo.

[3] Kháng cáo:

Ngày 06-4-2023, bị cáo Võ Bá L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do hình phạt quá nặng.

Ngày 29 - 3 - 2023, bị hại bà Trần Thị T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, với lý do Bản án sơ thẩm đã không xem xét, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bà.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Võ Bá L giữ nguyên kháng cáo, trình bày ý kiến là bị cáo nghĩ thuê làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định chứ không biết là làm giả.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến là xem lại hành vi bị cáo nhận số tiền 500.000.000đồng ban đầu là quan hệ dân sự; bị cáo chỉ có ý thức chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng sau này; do đó đề nghị xem xét lại khung tội danh xét xử và giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị hại bà Trần Thị T2 vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến, xem như giữ nguyên đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: tại giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bị hại kháng cáo nhưng vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên đề nghị tiếp tục xét xử.

Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận các kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, vắng mặt người bị hại kháng cáo nhưng lý do vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội:

Sau khi mua lại diện tích đất 200m2 của bà Ngô Thị Phương T4, (diện tích đất này nằm chung trong thửa đất số 254, tờ bản đồ số 26 có diện tích 732m2, thuộc thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam, do hộ bà Nguyễn Thị Đ1 đứng tên, chưa tách riêng ra) bị cáo L thỏa thuận chuyển nhượng lại cho vợ chồng bà Trần Thị T2 với giá 800.000.000 đồng. Bị cáo chịu trách nhiệm làm thủ tục giấy tờ gồm tách thửa và sang tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà T2. Bị cáo nhận đặt cọc số tiền 400.000.000 đồng và nhận thêm 100.000.000 đồng tiền chuyển nhượng đất, sau đó đặt làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên ông Nguyễn Thành T1 và bà Trần Thị T2, rồi đưa Giấy chứng nhận QSD đất giả này cho vợ chồng bà T2 để tiếp tục nhận số tiền còn lại là 300.000.000 đồng.

Bị cáo Võ Bá L làm công việc môi giới bất động sản, biết rõ trình tự thủ tục tách thửa đất và chuyển nhượng, cấp Giấy chứng nhận mới; nên bị cáo phải biết rõ “người tên K1” mà bị cáo liên hệ không thể tự mình làm đủ thủ tục để tách thửa và thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, mà phải thông qua bị cáo để liên hệ với Chủ sử dụng đất và người nhận chuyển nhượng đất cùng làm thủ tục với các Cơ quan chức năng. Bị cáo chỉ đặt làm Giấy chứng nhận QSD đất qua mạng xã hội, mà không thông qua các thủ tục tách thửa, chuyển nhượng và đăng ký hồ sơ thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ Chủ sử dụng đất và người nhận chuyển nhượng, rồi bị cáo lại nhận Giấy chứng nhận qua đường bưu phẩm của Bưu Đ2 từ “người tên K1” gửi, thể hiện sự không minh bạch, nên bị cáo biết rõ là làm giả. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng đã liên hệ K1 làm dịch vụ, không biết là làm giả, ý kiến này không hợp lý nên không được chấp nhận Mặc dù việc nhận chuyển nhượng diện tích 200m2 thuộc một phần thửa đất số 24, tờ bản đồ số 26 tại thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam chưa có đầy đủ giấy tờ về quyền sử dụng đất, nhưng bị cáo Võ Bá L tiếp tục chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Nguyễn Thành T1, bà Trần Thị T2 và đã 02 lần nhận số tiền 500.000.000 đồng, bị cáo chịu trách nhiệm hoàn thành giấy tờ về tách thửa và thủ tục hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị hại. Thực tế bị cáo không hoàn thành được hồ sơ, nhưng không trả lại tiền cho bị hại nên có dấu hiệu của hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Sau đó bị cáo lại đặt làm giả GCNQSDĐ giao cho bị hại để tiếp tục nhận số tiền 300.000.000 đồng, hành vi này của bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Bản án sơ thẩm đã nhận định rõ các hành vi, xác định bị cáo chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng để thu hút về một tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là phù hợp với diễn biến của hành vi và mục đích cuối cùng của bị cáo, đồng thời đã xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo. Ý kiến của những người bào chữa là không hợp lý, bởi thực tế là bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng, nên không được chấp nhận.

Hành vi và hậu quả nêu trên của bị cáo Võ Bá L đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung “sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xem xét về hình phạt:

Bị cáo Võ Bá L là người có đủ năng lực hành vi để nhận thức việc chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng của người khác là phạm tội. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.

Bị cáo 03 lần chiếm đoạt tiền của vợ chồng bà Trần Thị T2 với số tiền mỗi lần đều trên 2.000.000 đồng, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự“phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Quá trình điều tra và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho vợ chồng bà Trần Thị T2 số tiền 835.000.000 đồng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại” quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và cha ruột ông Võ K được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt thấp hơn liền kề là đã xem xét có lợi nhất cho bị cáo. Tuy nhiên, đến nay bị cáo đã hoàn trả toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm, thể hiện tính giáo dục riêng vả phòng ngừa chung [4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo Võ Bá L khai nhận khi bán lô đất cho vợ chồng bà Trần Thị T2 với số tiền 800.000.000 đồng thì bị cáo có gửi lại cho bà T2 15.000.000 đồng và thực nhận số tiền 785.000.000 đồng, tuy nhiên bà Trần Thị T2 không đồng ý và khẳng định số tiền bị cáo chiếm đoạt là 800.000.000 đồng. Lời khai của bị cáo Võ Bá L không được bị hại thừa nhận và bị cáo không có chứng cứ gì chứng minh, nên xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt tổng cộng là 800.000.000 đồng. Sau khi phạm tội, bị cáo Võ Bá L đã tác động gia đình khắc phục được số tiền 835.000.000 đồng cho vợ chồng bà T2, như vậy bị cáo đã bồi thường thiệt hại xong số tiền chiếm đoạt 800.000.000 đồng và tự nguyện bồi thường thêm cho bị hại được số tiền 35.000.000 đồng là tiền lãi suất. Như vậy, việc bồi thường dân sự của bị cáo đã đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho bị hại, nên nội dung kháng cáo trách nhiệm dân sự không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[5] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Võ Bá L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng, bị hại bà Trần Thị T2 phải chịu án phí là 300.000 đồng về kháng cáo phần quyết định dân sự theo quy định tại điểm a, e khoản 2 Điều 23 và khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Bá L và không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị T2, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

2. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Bá L BBảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Bá L 02 Hi) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 09 Cn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam, ngày 23-4-2022.

3. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Võ Bá L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bà Trần Thị T2 phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 192/2023/HS-PT

Số hiệu:192/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về