Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 402/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 402/2021/HSPT NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 426/2021/TLPT-HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Trần Văn C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị hại và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 01/07/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Trần Văn C, tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 31/12/1973, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; con ông Trần Văn B (chết) và bà Trần Thị N; vợ: Đào Thị P (bị cáo trong vụ án), con: Có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/11/2019- Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Bùi Quốc H; Công ty Luật TNHH N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế- Có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Ái L; địa chỉ:. Thôn B, xã L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. A Lê Nhật T; địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

3. Chị Hoàng Thị Hà A và anh Nguyễn A T, địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Chị Nguyễn Thị H và anh Huỳnh Q; địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

5. Chị Nguyễn Thị A1; địa chỉ: huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

6. Chị Đào Thị Hạnh và anh Trần Đ; địa chỉ: huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

7. Chị Cái Thị Thanh H và anh Lê Thịnh T; địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tất cả các bị hại đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có công việc ổn định và nợ nần trong việc đánh bạc chơi bằng hình thức chơi Game Tài, Xỉu trên mạng Internet, nên Đào Thị P vào thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng và thuê trọ tại nhà nghỉ C ở thị trấn P, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế để trốn. Sau đó, P lợi dụng có chồng là Trần Văn C đang sinh sống tại Mỹ, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt của những người có tài sản, P đã dùng nhiều thủ đoạn gian dối, đưa ra nhiều thông tin giả là: P đang ở Mỹ cùng chồng và con trai là Trần Viết N, góp vốn để đóng một nửa phần tàu bắt tôm ở Mỹ; mượn tiền để trả nợ ngân hàng tại Mỹ, để trả nợ cho mẹ nuôi của chồng ở Mỹ, để con trai là Trần Viết N mổ ruột thừa ở Mỹ, để làm thủ tục cho con trai là Trần Văn P đi Mỹ và để mua nhà tại Mỹ.

Để cho mọi người tin tưởng, P đã xúi giục Trần Văn C và Trần Văn P (chồng và con của P) cùng thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người dân sống tại huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế, P tặng cho các bị hại quà đồ dùng của Mỹ như: bánh, kẹo Sôcôla, dầu xanh, thuốc bổ khớp..., trả một ít tiền lãi, tiền gốc và nhiều lần điện thoại bằng Messenger qua mạng Internet gặp các bị hại nói dối là đang sống ở Mỹ cùng với chồng con, rồi đưa máy điện thoại cho C nói chuyện, để thể hiện là P đang ở Mỹ. Khi vay mượn tiền, P nói các bị hại chuyển tiền vào tài khoản của P và tài khoản của nhiều người khác nhau, để P và những người này chuyển tiền vào tài khoản của P ở Mỹ hoặc P nhờ P về gặp các bị hại lấy tiền để chuyển vào tài khoản cho P... Do tin tưởng lời nói của P là thật, nên các bị hại đã nhiều lần đưa cho P số tiền rất lớn, rồi P chiếm đoạt phần lớn số tiền dùng để đánh bạc bằng hình thức chơi Game Tài - Xỉu trên mạng Internet, nuôi sống gia đình và sử dụng vào mục đích cá nhân.

Với thủ đoạn trên, trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 10 năm 2019, Đào Thị P cùng với Trần Văn P và Trần Văn C chiếm đoạt tiền của 07 người, cụ thể như sau:

Hành vi phạm tội của Đào Thị P:

Chị Nguyễn Thị Ái L (sinh năm 1984, trú tại: thôn B, xã L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Vào, ngày 10/11/2017, P đến nhà gặp chị Nguyễn Thị Ái L nói dối là cần tiền để làm hồ sơ đi định cư ở Mỹ cùng với chồng, nên hỏi vay chị L số tiền 300.000.000 đồng, thì chị L yêu cầu P nói chồng là Trần Văn C điện thoại về mới cho mượn. Nghe vậy, P nói dối với C là cần tiền để lo cho con ăn học, nên bảo C điện thoại về Việt Nam nói chị L mượn tiền. Ngày 12/11/2017, P đến nhà chị L, rồi C gọi điện thoại nói với chị L là “O cho vợ tôi mượn tiền đi rồi có chi tháng 5 vô mùa, anh gửi về trả”, nên chị L đồng ý. Ngày 19/11/2017, chị L đưa cho P mượn số tiền 200.000.000 đồng. Ngày 20/11/2017, do không có tiền mặt, nên chị L đưa cho P 2,8 cây vàng 9999 (hai bên thỏa thuận thành số tiền 100.000.000 đồng). Sau đó, nên P đưa lại tiền lãi của một tháng cho chị L, với số tiền 18.000.000 đồng.

Ngày 01/10/2020, Sở Tài chính tỉnh Thừa Thiên Huế có công văn số 2891/STC-GCS&DN trả lời giá 01 lượng vàng 9999 tại thời điểm ngày 20/11/2017 là 35.950.000 đồng/01 lượng. Như vậy, 2,8 lượng x 35.950.000 đồng/01 lượng = 100.660.000 đồng

Để chị L tin tưởng tiếp tục cho vay mượn tiền, nên vào khoảng cuối tháng 11 năm 2017, P ở thành phố Đ gửi ra cho chị L một thùng quà đồ dùng của Mỹ. Đến khoảng cuối tháng 12 năm 2017, P điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet nói cho chị L là đang ở Mỹ và có chuyển trả cho chị L hai tháng tiền lãi là 36.000.000 đồng để tạo lòng tin nhằm chiếm đoạt tài sản của chị L.

Do vậy, từ tháng 6 năm 2018 đến ngày 09/8/2019, P nhiều lần nói dối chị L là: đang ở Mỹ cùng chồng và con trai Trần Viết N, góp vốn để đóng một nửa phần tàu bắt tôm ở Mỹ; mượn tiền để trả nợ ngân hàng tại Mỹ, trả nợ cho mẹ nuôi anh C, cho con trai là Trần Viết N mổ ruột thừa, làm thủ tục cho con trai là Trần Văn P đi Mỹ và để trả nợ cho anh ruột là Đào Cược (sinh năm 1975, trú tại: thành phố Đà Nẵng). Chị L tin tưởng P đang sinh sống tại Mỹ, nên tiếp tục đưa tiền và chuyển tiền vào tài khoản cho P nhiều lần, cụ thể như sau:

Mượn tài khoản số 408704060109468 mở tại ngân hàng X của anh Nguyễn Đình Quyết T (sinh năm 1989, trú tại: nhà nghỉ C, đường Nguyên Văn T, phường P, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế), rồi yêu cầu chị L chuyển tiền vào tài khoản 03 lần, với tổng số 654.800.000 đồng, gồm:

+ Ngày 22/8/2018, chị L chuyển số tiền 189.000.000 đồng;

+ Ngày 08/9/2018, chị L chuyển số tiền 233.300.000 đồng;

+ Ngày 24/9/2018, chị L chuyển số tiền 232.500.000 đồng.

Mượn tài khoản 105869084585 mở tại ngân hàng V của chị Lê Thị Diệu C (sinh năm 1963, trú tại: thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế), rồi yêu cầu chị L chuyển tiền vào tài khoản 02 lần, với tổng số tiền là 280.000.000 đồng, gồm: ngày 12/10/2018, chị L chuyển số tiền 200.000.000 đồng và ngày 22/10/2018, chị L chuyển số tiền 80.000.000 đồng.

- Thông qua tài khoản 109868838731 mở tại ngân hàng V của Trần Văn P, chị L đã 09 lần chuyển tiền cho Đào Thị P, với tổng số tiền là 2.217.000.000 đồng, gồm:

+ Ngày 05/11/2018, chị L                         chuyển số tiền 135.000.000 đồng;

+ Ngày 03/12/2018, chị L                         chuyển số tiền 100.000.000 đồng;

- Ngày 10/12/2018, chị L                          chuyển số tiền 180.000.000 đồng;

+ Ngày 15/01/2019, chị L                         chuyển số tiền 47.000.000 đồng;

- Ngày 29/01/2019, chị L                          chuyển số tiền 700.000.000 đồng;

- Ngày 15/02/2019, chị L                          chuyển số tiền 165.000.000 đồng;

- Ngày 25/02/2019, chị L                          chuyển số tiền 170.000.000 đồng;

+ Ngày 14/3/2019, chị L                           chuyển số tiền 530.000.000 đồng;

+ Ngày 18/4/2019, chị L                           chuyển số tiền 190.000.000 đồng.

Trong khoảng thời gian vào tháng 02 năm 2019 (không xác định ngày cụ thể), Đào Thị P đã 02 lần thuê xe ôtô của anh Nguyễn Đình Quyết T, rồi nói anh T chở Trần Văn P về nhà chị L lấy tổng số tiền 450.000.000 đồng.

Ngày 28/5/2019, chị L (lấy tên Lư Quang N) chuyển cho P số tiền 450.000.000 đồng vào tài khoản số Ị02869680161 mở tại ngân hàng V của đối tượng Đỗ Đình L.

Ngày 04/6/2019, chị L chuyển cho P số tiền 280.000.000 đồng vào tài khoản số 19034244768019 mở tại ngân hàng T của đối tượng Phan Hà B.

Ngày 04/7/2019, chị L chuyển cho P số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản số 106868613527 mở tại ngân hàng V của đối tượng Nguyễn Cao C.

Ngày 17/8/2019, chị L chuyển cho P số tiền 187.000.000 đồng vào tài khoản số 104006870492 mở tại ngân hàng V của đối tượng Đặng Ngọc T.

Ngày 19/8/2019, chị L chuyển cho P số tiền 130.000.000 đồng vào tài khoản số 19034484669018 mở tại ngân hàng T của đối tượng Võ Quốc C.

Ngày 09/8/2019, chị L (lấy tên Võ Thị Phương L) chuyển cho P số tiền 400.000.000 đồng vào tài khoản số 5990205821751 mở tại ngân hàng A của đối tượng Nguyễn Cao C.

Tổng số tiền mà Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Ái L là 5.549.460.000 đồng.

Hiện Đào Thị P đã hoàn trả cho chị L nhiều lần, với tổng số tiền là 934.000.000 đồng.

Chị L yêu cầu Đào Thị P bồi thường số tiền 4.615.460.000 đồng. Hiện P chưa bồi thường.

Sau khi đã chuyển số tiền trên cho Đào Thị P, thì chị Nguyễn Thị Ái L yêu cầu vợ chồng P và C viết giấy mượn tiền, nên P nói dối với Chan là chị L cho vay mượn tiền để trả ngân hàng, sau này sẽ chuyển nhượng lại nhà cho chị L. Tin lời P nói, nên C (lúc này C đã bị trục xuất về Việt Nam) viết giấy mượn tiền vào ngày 20/9/2018, với số tiền 100.000 đô la Mỹ, rồi đưa cho chị L cất giữ. Tại thời điểm c ký giấy nhận nợ thì P đã chiếm đoạt số tiền nêu trên.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm: 01 máy tính bảng hiệu Samsung, loại Galaxy Tab A (2017), có số hmei: 358525080341997; 11 giấy chuyển tiền cho bị can P; 01 tờ giấy viết ngày 20/11/2017 thể hiện bị can P mượn của chị L số tiền 300.000.000 đồng; 01 tờ giấy phô tô có hình bị can C; 01 bản phô tô giấy CMND mang tên Đào Thị P; 01 tờ giấy mượn tiền do bị can Trần Văn C viết vào ngày 20/9/2018 (chị Nguyễn Thị Ái L giao nộp).

Ngày 12/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng số 03/QĐ-CSHS trả lại cho chị Nguyễn Thị Ái L 01 máy tính bảng hiệu Samsung, loại Galaxy Tab A (2017).

A Lê Nhật T (sinh năm 1990, trú tại: tổ dân phố 6, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trong khoảng thời gian tháng 8 năm 2018, Đào Thị P vẫn thường xuyên liên hệ anh T để mượn số tiền ít và trả đúng hẹn, nên anh T tin tưởng. Đến khoảng đầu tháng 11 năm 2018, nhằm chiếm đoạt tiền của anh T, nên P nói dối đang ở Mỹ và mượn số tiền 300.000.000 đồng để đóng tàu. Do số tiền lớn nên anh T nói không có, nhưng mẹ thì có và muốn mượn thì phải có tài sản chính chủ để làm tin, thỏa thuận lãi suất 5%/01 tháng.

Do trước đó, P điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet cho chị Huỳnh Thị M (sinh năm 1967, trú tại: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L tỉnh Thừa Thiên Huế) hỏi mượn tiền để góp vốn phần tàu đánh bắt tôm tại Mỹ, nhưng chị M nói không có tiền, nên P nói chị M đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đến ngân hàng thế chấp lấy tiền cho P mượn, nhưng chồng chị M là anh Lê H không đồng ý, nên chị M nói lại cho P biết.

Sau đó, thì P liên lạc với anh T nói có bà chị họ cầm tài sản chính chủ xuống vay cho tôi được không, thì anh T nói “được, nhưng giữa người mượn và người cho mượn biết với nhau thôi”. Nên ngày 15/11/2018, P điện thoại nói chị M đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đến tiệm vàng Kiên T để cầm cố làm tin vay số tiền 300.000.000 đồng đưa cho P mượn, thì chị M đồng ý và đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số B604647 của anh Lê H và chị Huỳnh Thị M, Chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Thị M và Lê H đến tiệm vàng Kim T gặp anh Lê Nhật T xem để vay tiền đưa cho P mượn. A T đồng ý cho chị M vay số tiền 300.000.000 đồng.

Ngày 20/11/2018, chị M đến gặp anh T để ký vào giấy mượn số tiền 300.000.000 đồng (do trước đó chị M đã cung cấp thông tin, đế anh T viết sẵn) và chị M nói anh T chuyển số tiền 300.000.000 đồng cho P. Nên anh T chuyển số tiền 250.000.000đ vào tài khoản số 105006009671 mở tại ngân hàng V của anh Cái Quốc Việt theo yêu cầu của P. Còn lại số tiền 50.000.000 đồng, anh T đưa cho một người P nhờ đến lấy (không xác định rõ).

Trong khoảng thời gian tháng 9 năm 2019, do cần tài sản thế chấp để lừa vay tiền của chị Cái Thị Thanh H, nên P nói dối với anh T là đang ở Mỹ, nến cần mượn số tiền 200.000.000 đồng để chuộc giấy tờ nhà đang thể chấp ở ngân hàng đem về cầm cố cho anh T, thì anh T đồng ý. Ngày 26/9/2019, P nhờ chị Đào Thị H (sinh năm 1978, trú tại huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế) đến gặp anh T lấy số tiền 200.000.000 đồng, rồi H nói Trần Văn P và anh Trần Đ đến A thuộc Phòng giao dịch Khu III, chi nhánh huyện L lấy giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của thửa đất số 68, tờ bản đồ số 35, địa chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế của chị Đào Thị H và anh Trần Đ. Sau đó, chị Đào Thị H và anh Đ đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên về cầm cố cho chị Cái Thị Thanh H theo yêu cầu của P.

Tổng số tiền Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Lê Nhật T là 500.000.000 đồng.

Hiện Đào Thị P đã trả tiền lãi 09 tháng cho anh T, với tổng số tiền là 135.000.000 đồng.

A T yêu cầu chị Huỳnh Thị M bồi thường số tiền 300.000.000 đồng. Còn số tiền 200.000.000 đồng, anh T không yêu cầu P phải bồi thường.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm:

01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền trên đất số B604647 thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 (địa chỉ: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế), 01 giấy mượn số tiền 300.000.000 đồng, bản photocoppy Chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Thị M và Lê H. (do anh Lê Nhật T giao nộp).

01 chứng từ giao dịch ngày 26/9/2019 và 01 Hợp đồng tín dụng số 4005LAV2019 02721 ngày 27/8/2019 (do chị Đào Thị H giao nộp).

Chị Hoàng Thị Hà A (sinh năm 1979, trú tại: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Vào ngày 20/9/2018, Trần Văn C bị Mỹ trục xuất về Việt Nam rồi điện thoại cho Đào Thị P hỏi đang ở đâu, thì P nói đang ở thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cùng với con Trần Viết N (sinh năm 2007), nên C lên thành phố Đ sinh sống cùng với P và N. Đến khoảng ngày 25/9/2018, P, C và N ra Huế thuê nhà nghỉ C ở đường Nguyễn Văn T, phường P, thị xã H để ở lại.

Sau đó, vào khoảng đầu tháng 11 năm 2018 (không xác định được ngày cụ thể), do muốn có tiền chi tiêu trong gia đình và đánh bạc trên mạng Internet, nên P bàn bạc với C lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Hoàng Thị Hà A (là bạn của P). Để chị Hà A tin tưởng, P tắt bóng điện ở phòng ngủ, rồi điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet nói chuyện với chị Hà A để thể hiện thời gian ở Mỹ vào ban đêm, còn ở Việt Nam ban ngày. Sau đó, P ở trong phòng ngủ điện thoại nói dối là “có mẹ nuôi của C cho mượn số tiền 600.000.000 đồng, còn thiếu số tiền 600.000.000 đồng cho đủ phần tàu đánh bắt tôm, phần tàu này không bao giờ mất, chỉ thu được lợi nhuận”, nên rủ chị Hà A góp vốn để đóng một nửa phần tàu đánh bắt tôm và đưa điện thoại cho C nói chuyện với vợ chồng chị Hà A và anh Nguyễn A T là “giúp cho 2 vợ chồng anh mượn tiền đi”, thì chị Hà A nói “không có chi mà anh, dạ được rồi” và C nói với anh T “Cảm om o, chú cho mượn tiền”. Lúc này, P cũng đang ở trong phòng ngủ với P và C, nên P nghe rõ P và C bàn bạc lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Hà A.

Khoảng 10 ngày sau, P thuê xe ôtô của anh Nguyễn Đình Quyết T (vụ 1) chở P chạy đến đèo Mũi Ne thuộc thị trấn L, huyện Phu L, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp chị Hà A lấy số tiền 600.000.000 đồng, rồi đem về giao cho P.

Sau đó, nhằm mục đích tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Hà A, nên P tiếp tục nói dối và rủ chị Hà A đóng góp phần tàu đánh bắt tôm tại Mỹ. Tin tưởng lời nói của P, nên chị Hà A nhiều lần chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng theo yêu cầu của P, cụ thể như sau:

Chị Hà A chuyển cho P 02 lần, với tổng số tiền là 202.000.000 đồng vào tài khoản số 105006009671 mở tại ngân hàng V của Cái Quốc Việt (sinh năm 1993, trú tại: tổ dân phố 5, thị trấn P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế), gồm: ngày 11/12/2018, chị Hà A chuyển số tiền 100.000.000 đồng và ngày 19/12/2018, chị Hà A chuyển số tiền 102.000.000 đồng. Sau đó, Việt chuyển số tiền trên vào tài khoản do đối tượng Bùi Minh T cung cấp để mua Game đánh bạc giúp cho P.

Ngày 21/02/2019, chị Hà A chuyển cho P số tiền 300.000.000 đồng vào tài khoản số 106868939470 mở tại ngân hàng V của đối tượng Nguyễn Diễm Hà.

- Thông qua tài khoản số 109868838731 mở tại ngân hàng V của Trần Văn P, Chị Hà A 05 lần chuyển tiền cho P, với tổng số tiền là 1.250.500.000 đồng, gồm:

+ Ngày 01/3/2019, chị Hà A chuyển số tiền 50.500.000 đồng.

+ Ngày 27/3/2019, chị Hà A nhờ anh Lý P L chuyển số tiền 600.000.000 đồng.

+ Ngày 29/3/2019, chị Hà A nhờ anh Lý P L chuyển số tiền 300.000.000 đồng.

+ Ngày 13/5/2019, chị Hà A chuyển số tiền 100.000.000 đồng.

- Ngày 17/5/2019, chị Hà A chuyển số tiền 200.000.000 đồng.

- Ngày 22/5/2019, chị Hà A đưa cho Trần Văn P số tiền 390.000.000 đồng. Ngoài ra, chị Hà A đưa bị can P thêm 02 lần, với số tiền 99.500.000 đồng (không xác định ngày cụ thể).

- Thông qua tài khoản số 106005101745 mở tại ngân hàng V của anh Lê Nhật T (sinh năm 1990, trú tại: tổ dân phố 5, thị trấn L, huyện L), Chị Hà A chuyển 02 lần chuyển tiền cho P, với tổng số tiền là 350.000.000 đồng, gồm: ngày 21/02/2019, chị Hà A chuyển số tiền 100.000.000 đồng và ngày 09/9/2019, chị Hà A chuyển số tiền 250.000.000 đồng. Sau đó, anh T chuyển số tiền trên vào tài khoản do P cung cấp để mua Game đánh bạc.

- Thông qua tài khoản số 102869680161 mở tại ngân hàng V của đối tượng Đỗ Đình L, chị Hà A 02 chuyển cho P, với tổng số tiền là 900.000.000 đồng, gồm: ngày 02/7/2019, chị Hà A chuyển số tiền 600.000.000 đồng và ngày 08/7/2019, chị Hà A chuyển số tiền 300.000.000 đồng.

Ngày 11/7/2019, chị Hà A chuyển cho P số tiền 350.000.000 đồng vào tài khoản số 103000824809 mở tại ngân hàng V của đối tượng Dương Văn Thành.

Thông qua tài khoản số 19034484669018 mở tại ngân hàng T của đối tượng Võ Quốc C, chị Hà A 03 lần chuyển cho P, với tổng số tiền là 423.000.000 đồng, gồm:

Ngày 19/7/2019, chị Hà A chuyển số tiền 200.000.000 đồng.

+ Ngày 22/7/2019, chị Hà A chuyển số tiền 23.000.000 đồng.

+ Ngày 21/8/2019, chị Hà A chuyển số tiền 200.000.000 đồng.

- Thông qua tài khoản số 106868613527 mở tại ngân hàng V của đối tượng Nguyễn Cao C, chị Hà A 04 lần chuyển cho P, với tổng số tiền là 1.135.000.000 đồng, gồm:

+ Ngày 22/8/2019, chị Hà A nhờ chồng là anh Nguyễn A T chuyển số tiền 50.000.000 đồng.

+ Ngày 31/8/2019, chị Hà A chuyển số tiền 185.000.000 đồng.

+ Ngày 01/9/2019, chị Hà A chuyển số tiền 50.000.000 đồng.

+ Ngày 09/9/2019, chị Hà A chuyển số tiền 850.000.000 đồng.

Sau đó, chị Hà A nghi ngờ Đào Thị P lừa đảo chiếm đoạt số tiền trên, nên chị Hà A yêu cầu phải có hợp đồng đầu tư có chữ ký của P và C, để sau này nếu P đau ốm thì có C chịu trách nhiệm số tiền đã nhận. Nên ngày 10/10/2019, P đọc nội dung để chị Hà A soạn thảo Hợp đồng đầu tư vào tàu đánh cá thủy hải sản tại Hợp chủng quốc H Kỳ tại tàu Lady Christien để thể hiện chị Hà A đã đưa cho bị can P số tiền 6.000.000.000đ (Sáu tỉ đồng) đóng 05 phần tàu (01 phần tàu trị giá 1.200.000.000 đồng). Sau đó, đưa cho Đào Thị P và Trần Văn C ký xác nhận.

Tổng số tiền mà Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Hoàng Thị Hà A với tổng số tiền 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng).

Hiện Đào Thị P đã hoàn trả cho chị Hoàng Thị Hà A nhiều lần với tổng số tiền là 2.000.000.000 đồng, gồm:

- Hoàn trả bằng tiền 03 lần, với tổng số tiền là 1.000.000.000 đồng.

- Ngày 01/11/2019, Đào Thị P đã chuyển nhượng thửa đất số 64, tờ bản đồ số 19, địa chỉ: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế cho vợ chồng chị Hoàng Thị Hà A, anh Nguyễn A T để trừ nợ số tiền 1.000.000.000 đồng.

Hiện tại, Đào Thị P còn nợ vợ chồng chị Hà A số tiền là 4.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, vợ chồng chị Hà A yêu cầu P bồi thường số tiền 1.500.000.000 đồng và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can. Hiện P chưa bồi thường số tiền trên.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu hồng, số Imei 355831082133900; 08 tờ giấy chuyển tiền cho bị can P; 01 giấy Hợp đồng đầu tư vào tàu đánh cá thủy hải sản tại Hợp chúng quốc H Kỳ tại tàu Lady Christien; 01 giấy viết tay ngày 10/10/2019 the hiện bị can P đồng ý chuyển nhượng nhà và đất số 64, tờ bản đồ số 19, tại TDP 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế cho chị Hà A, anh Nguyễn A T để trừ nợ số tiền 1.000.000.000; 01 tờ giấy có ghi dòng chữ NOTICE FROM DISTRICT COURT - WESTERN DISTRICT) LOUISIANA”, (chị Hoàng Thị Hà A giao nộp).

Ngày 12/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng số 03/QĐ-CSHS trả lại cho chị Hoàng Thị Hà A 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu hồng.

1. Chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1979, trú tại: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Khoảng đầu tháng 3 năm 2019 (không xác định ngày cụ thể), Đào Thị Phương điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet nói dối là đang ở Mỹ và hỏi mượn chị Nguyễn Thị H số tiền 300.000.000 đồng. Tin tưởng lời nói của P, nên chị H đã đưa số tiền 300.000.000 đồng cho chị Hoàng Thị Hà A theo yêu cầu của P. Ngày 06/3/2019, chị Hà A đã đưa số tiền 300.000.000 đồng cho Trần Văn P.

Sau đó, nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tiền của vợ chồng chị H, anh Huỳnh Q, nên P tiếp tục nói dối và rủ chị H đóng góp phần tàu đánh bắt ỉ tôm tại Mỹ và làm thủ tục cho Trần Văn P đi Mỹ. Tin tưởng lời nói của P, nên chị H nhiều lần đưa tiền theo yêu cầu của P, cụ thể như sau: Ngày 25/4/2019, chị H đưa số tiền 1.200.000.000 đồng để nhờ chị Hà A chuyển cho P. Sau đó, chị Hà A đã chuyển số tiền 1.200.000.000 đồng vào tài khoản số 0561000500513 mở tại ngân hàng VC của anh Nguyễn Phúc L (sinh năm 1989, trú tại: tỉnh Lâm Đồng). Ngày 26/4/2019, anh L đã chuyển số tiền 1.200.000.000 đồng vào tài khoản số 050104380198 mở tại ngân hàng S của Đào Thị P.

- Ngày 17/5/2019, chị H đưa số tiền 1.200.000.000 đồng để nhờ chị Hà A chuyển cho P. Sau đó, chị Hà A đã chuyển số tiền 1.200.000.000 đồng vào tài khoản số 109868838731 mở tại ngân hàng V của P.

- Vào tháng 6 năm 2019 (không xác định ngày cụ thể), chị H tiếp tục góp một phần tàu đánh bắt tôm tương đương với số tiền 1.200.000.000 đồng cho P. Do trước đó, chị H có cho P mượn số tiền 300.000.000đồng, nên chị H phải đưa thêm số tiền 900.000.000 đồng cho anh Đào D (sinh năm 1973, trú tại: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế, là anh ruột của P) theo yêu cầu của P. Sau đó, anh D lấy số tiền 600.000.000 đồng để nhờ chị Hà A chuyển cho P. Ngày 21/6/2019, chị Hà A đã chuyển số tiền 600.000.000 đồng cho P qua tài khoản số 106868613527 mở tại ngân hàng V của đối tượng Nguyễn Cao C. Còn số tiền 300.000.000 đồng, P nhờ anh D trả nợ giúp (không nhớ trả nợ cho ai).

- Vào tháng 8 năm 2019 (không xác định ngày cụ thể), P nói dối là làm thủ tục cho bị can P đi Mỹ, nên hỏi mượn chị H số tiền 350.000.000 đồng. Ngày 19/8/2019, chị H đưa số tiền 350.000.000 đồng để nhờ chị Huỳnh Thị M chuyển tiền cho P. Ngày 19/8/2019, chị M chuyển số tiền 350.000.000 đồng cho P qua tài khoản sô 19034484669018 mở tại ngân hàng T của đối tượng Võ Quốc C.

Tổng số tiền mà Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H là 3.950.000.000 đồng.

Chị H yêu cầu Đào Thị P bồi thường số tiền 3.950.000.000 đồng. Hiện P chưa bồi thường.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 01 chứng từ giao dịch phiếu hạch toán của ngân hàng VC chi nhánh Lâm Đồng của tài khoản số 0056-100-0500313 và 01 chứng từ giao dịch ủy nhiệm chi ngày 25/4/2019 của ngân hàng VC chi nhánh Lâm Đồng.

- 01 tờ giấy Chứng minh nhân dân của Đảo Thị P, 01 tờ giấy ViSa của Trần Văn C, 02 tờ Giấy chứng nhận cho mượn tiền, 01 tờ giấy nộp tiền tại Ngân hàng TMCP Công T và 01 tờ giấy Chứng minh nhân dân của anh Huỳnh Q.

Chị Nguyễn Thị A1 (sinh năm 1970, trú tại: thôn Hiền Hòa 2, xã Vinh Hiền, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Ngày 09/7/2019, chị Đào Thị N (sinh năm 1970, trú tại: huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế là chị ruột của P) đến nhà gặp chị A1 để hỏi mượn cho P số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 11/7/2019, P điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet cho chị A nói dối là góp phần tàu đánh bắt tôm tại Mỹ, nên mượn số tiền 100.000.000. Tin tưởng lời nói của P, nên ngày 19/7/2019, chị A1 đưa số tiền 100.000.000 đồng cho chị N, để nhờ đưa cho P.

Ngày 20/9/2019, P điện thoại bằng Messenger cho chị A1 nói dối là mua nhà ở Mỹ, nên mượn thêm số tiền 200.000.000 đồng. Ngày 23/9/2019, chị A1 chuyển số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản số 105870350643 mở tại ngân hàng V của Trần Văn P theo yêu cầu của P.

Tổng số tiền mà Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị A1 là 300.000.000 đồng. Hiện P chưa bồi thường số tiền này.

Chị Đào Thị H (sinh năm 1965, trú tại: thôn Hiền Hòa 2, xã Vinh Hiền, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế)

Vào khoảng tháng 8 năm 2019 (không xác định ngày cụ thể), Đào Thị P điện thoại Messenger trên mạng Internet cho chị H (chị ruột của P) nói dối là làm thủ tục cho Trần Văn P đi Mỹ, nên hỏi mượn số tiền 200.000.000 đồng. Tin tưởng lời nói của P, nên ngày 27/8/2019 vợ chồng chị H, anh Trần Đ đã thế chấp thửa đất số 68, tờ bản đồ 35 tại huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế tại ngân hàng A thuộc Phòng giao dịch Khu III, chi nhánh huyện L, lấy số tiền 200.000.000 đồng đưa cho P. Sau đó, P chuyển vào tài khoản theo yêu cầu của P.

Chị Đào Thị H đã nhận lại tài sản, nên không yêu cầu Đào Thị P bồi thường thiệt hại về dân sự.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ gồm: 01 Hợp đồng tín dụng số 4005LAV2Ó19 02721 ngày 27/8/2019.

Chị Cái Thị Thanh H (sinh năm 1970, trú tại: tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Khoảng tháng 8 năm 2019, thông qua giới thiệu của học sinh cũ tên là Nguyễn Thị L (con của chị Đào Thị H) nên chị Cái Thị Thanh H muốn làm quen và kết bạn trên mạng xã hội facebook với Đào Thị P. Qua trò chuyện, P nói dối là đang ở Mỹ và hỏi mượn tiền để làm thủ tục cho con đi Mỹ, thỏa thuận trả lãi là 30.000 đồng/1 tháng/1.000.000 đồng. Nghe vậy, chị Cái Thị Thạnh H nói không có tiền, nhưng sẽ huy động, mượn tiền bạn bè và cho mượn phải có tài sản đảm bảo, thì P nói có thẻ đỏ của bà chị thế chấp. Sau đó, P liên lạc nói với chị Đào Thị H (vụ 6) là “cô H cho em vay 800.000.0000 đồng tiền 15 thôi, còn em vay ngoài là 30 đến 40, chị lấy sổ đỏ về 'ỉ đưa cho cô H để lấy lòng tin thôi”. Rồi P liên lạc nhờ chị ruột là Đào Thị H (vụ 2) dẫn chị Cái Thị Thanh H đến xem nhà chị Đào Thị H, thì chị Cái Thị Thanh H đồng ý cho P vay số tiền 700.000.000 đồng.

Sang ngày 26/9/2019, theo yêu cầu của P, Trần Văn P đến nhà chị Đào Thị H lấy số tiền 200.000.000 đồng, rồi P cùng với anh Trần Đ (chồng của chị Đào Thị H) đến ngân hàng trả tiền để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất (vụ 6). Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, P đi xe taxi đến chở vợ chồng chị Đào Thị H, anh Trần Đ và chị Cái Thị Thanh H, anh Lê Thịnh T đến văn phòng thừa phát lại T D (địa chỉ số: thành phố H) gặp anh Nguyễn Viết T (sinh năm 1960, Trưởng văn phòng) để lập vi bằng theo yêu cầu của chị Cái Thị Thanh H với nội dung là vợ chồng chị Cái Thị Thanh H, anh Lê Thịnh T cho vợ chồng chị Đào Thị H, anh Trần Đ vay số tiền 800.000.000 đồng để sửa chữa và nâng cấp tàu đánh cá và tài sản thế chấp là Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 68, tờ bản đồ 35 tại thôn Hiền Hòa 2, xã Vinh Hiền, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau đó, chị Cái Thị Thanh H đưa cho P ,số tiền 500.000.000 đồng, nên P nói vợ chồng chị H, anh Đ là “con chuyển 500.000.000 đồng này cho mẹ luôn dì H nha”, thì chị H đồng ý. P đã chuyển số tiền này vào tài khoản số 105870350643 mở tại ngân hàng V của mình.

Ngày 27/9/2019, chị Cái Thị Thanh H đưa tiếp cho P số tiền 250.000.000 đồng, rồi P chuyển số tiền này vào tài khoản số 105870350643 của mình. Còn lại số tiền 50.000.000 đồng, thì chị Cái Thị Thanh H lấy tiền lãi tháng đầu tiên là 24.000.000 đồng, còn số tiền 26.000.000 đồng thì P nói bồi dưỡng cho chị Cái Thị Thanh H vì đã giúp vay tiền.

Sau khi chiếm đoạt tiền, nên P thường xuyên liên lạc để nhờ chị Cái Thị Thanh H vay mượn tiền để làm thủ tục cho con đi Mỹ. Tin tưởng P, nên chị Cái Thị Thanh H nói với chị Nguyễn Thị Thu H (sinh năm 1970, trú tại: thôn P Hưng, xã L Thủy, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế là bạn thân) góp tiền để cho P vay, nên chị H đưa cho chị Cái Thị Thanh H số tiền 200.000.000 đồng. Sau khi có được số tiền 550.000.000 đồng, thì chị Cái Thị Thanh H liên lạc nói cho P biết và yêu cầu phải có người để làm tin, không cần thế chấp tài sản vì nghĩ có lập vi bằng theo pháp luật.

Ngày 10/10/2019, Đào Thị Phường liên lạc nói dối với chị Đào Thị H (vụ 2) là cần thêm tiền để làm thủ tục cho P đi Mỹ, nên nhờ chị Đào Thị H cùng với chồng là anh Nguyễn Đăng S (sinh năm 1979) đi ký giấy giúp cho P để làm tin.

Đến ngày 13/10/2019, chị Cái Thị Thanh H và chị Nguyễn Thị Thu H cùng với vợ chồng chị Đào Thị H, anh Nguyễn Đăng S đến văn phòng thừa phát lại T D gặp anh Nguyễn Viết T để lập 02 vi bằng theo yêu cầu của chị Cái Thị Thanh H với nội dung là vợ chồng chị Đào Thị H, anh Nguyễn Đăng S có chiếc tàu đánh cá 90CV, chị Cái Thị Thanh H góp 250.000.000 đồng và chị Nguyễn Thị Thu H góp 300.000.000 đồng đề sửa chữa, nâng cấp tàu đánh cá để làm ăn chia lợi nhuận.

Ngày 14/10/2019, chị Đào Thị H cùng với chị Cái Thị Thanh H đến ngân hàng V chi nhánh L để chuyển số tiền 550.000.000 đồng cho P qua tài khoản số 105870350643 mở tại ngân hàng V của Trần Văn P.

Kết quả điều tra, xác minh như sau: Vợ chồng chị Đào Thị H, anh Trần Đ và chị Đào Thị H, anh Nguyễn Đăng S không có tàu đánh cá nào tại địa phương.

Tổng số tiền mà Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Cái Thị Thanh H là 1.350.000.000 đồng. Hiện P chưa bồi thường số tiền này.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ gồm:

01 văn bản thỏa thuận và cam kết bằng 02 tờ giấy A4; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 68, tờ bản đồ 35 tại thôn Hiền Hòa 2, xã Vinh Hiền, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc sở hữu của anh Trần Đ và chị Đào Thị H, (chị Cái Thị Thanh H giao nộp).

01 giấy nộp số tiền 550.000.000 đồng (chị Đào Thị H giao nộp).

01 Vi bằng số 30 ngày 26/9/2019 và 02 Vi bằng số 31, 32 ngày 13/10/2019 (anh Nguyễn Viết T giao nộp).

Như vậy, tổng số tiền Đào Thị P dùng nhiều thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của 07 người là 17.849.460.000 đồng (Mười bảy tỷ tám trăm bốn mươi chín triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng).

Ngoài các vật chứng được thu giữ nêu trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Đào Thị P, gồm: 01 thẻ ATM ngân hàng V, 01 giấy chứng minh nhân dân (đều mang tên Đào Thị P), 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9 màu tím, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 (2018) màu vàng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad màu đồng máy tính laptop nhãn hiệu Aces màu đen.

Hành vi phạm tội của Trần Văn P:

Khoảng đầu tháng 11 năm 2018 (không xác định được ngày cụ thể), P đang ở trong phòng nhà nghỉ C thì nghe Đào Thị P và Trần Văn C bàn bạc với nhau và điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet để rủ chị Hoàng Thị Hà A (vụ 3) góp một nửa phần tàu đánh bắt tôm tại Mỹ nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt số tiền 600.000.000 đồng.

Khoảng 10 ngày sau, P biết rõ P và C đang lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Hà A. Nên khi P thuê xe ôtô của anh Nguyễn Đình Quyết T (vụ 3), rồi nói P đi cùng anh T về đèo Mũi Né thuộc thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp chị Hà A lấy số tiền 600.000.000 đồng, thì P đồng ý đi lấy tiền về giao cho P.

Sau đó, P biết rõ P đang lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người dân tại huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế vì P nhiều lần can ngăn P không tiếp tục lấy tiền của người khác, nhưng P vẫn thực hiện hành vi phạm tội giúp P đi lấy tiền từ các bị hại; nếu các bị hại chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của P, thì P đều nói cho P biết trước, để P đi rút tiền ở tài khoản, số tiền chiếm đoạt được, P đều đem về giao cho P, rồi hàng tháng P cho P số tiền khoảng 3.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Cụ thể như sau:

Từ ngày 03/12/2018 đến ngày 18/4/2019, chị Nguyễn Thị Ái L đưa cho P 08 lần, với tổng số tiền là 2.532.000.000 đồng.

Từ cuối tháng 11/2018 đến 22/5/2019, chị Hoàng Thị Hà A đưa cho P 09 lần, với tổng số tiền là 2.340.000.000 đồng.

- Vào các ngày 06/3/2019 và 17/5/2019, chị Nguyễn Thị H nhờ chị Hoàng Thị Hà A chuyển vào tài khoản của P 02 lần, với tổng số tiền là 1.500.000.000 đồng.

- Ngày 23/9/2019, chị Nguyễn Thị A1 chuyển vào tài khoản của P số tiền 300.000.000 đồng.

- Ngày 27/8/2019, chị Đào Thị H đưa cho P số tiền 200.000.000 đồng

- Ngày 26, 27/9/2019 và ngày 14/10/2019, chị Cái Thị Thanh H đưa và chuyển vào tài khoản của P 03 lần, với tổng số tiền là 1.350.000.000 đồng.

Như vậy, Trần Văn P đã đồng phạm với Đào Thị P chiếm đoạt của 06 người, với tổng số tiền là 8.822.000.000 đồng (Tám tỷ hai trăm hai mươi hai triệu đồng).

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm:

- 01 giấy chứng minh nhân dân số CMND: 192135493, 01 thẻ ATM ngân hàng V (đều mang tên Trần Văn P); 01 giấy nộp tiền V vào ngày 25/9/2019, người nộp Trần Văn P, người nhận Vũ Tiến T, số tài khoản 108005991805 và 01 dàn máy tính để bàn hiệu LG màu đen, gồm: 01 CPU và 01 màn hình (do Trần Văn P giao nộp).

01 điện thoại di động Iphone 6S màu vàng, IMEL 355431076188570 (do chị Nguyễn Thị Mỹ L giao nộp).

Quá trình điều tra xác định: Chị Nguyễn Thị Mỹ L (sinh năm 2002, trú tại: tổ dân phố 4, thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế là bạn gái của Trần Văn P), nên thường cho P mượn điện thoại di động để chơi game, vào Facebook và liên lạc với ai thì chị L không biết. Do vậy, chị L không đồng phạm với P về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị L điện thoại di động Iphone 6S màu vàng.

Vào ngày 05/11/2018, chị Nguyễn Thị Ái L (vụ 1) chuyển số tiền 135.000.000 đồng vào tài khoản 109868838731 mở tại ngân hàng V của Trần Văn P. Tuy nhiên, thời điểm này P chưa biết Đào Thị P dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền của chị L, nên Cơ quan điều tra xác định P không đồng phạm với Đào Thị P chiếm đoạt số tiền trên là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của Trần Văn C.

Vào ngày 20/9/2018, Trần Văn C bị Mỹ trục xuất về Việt Nam rồi điện thoại cho Đào Thị P hỏi đang ở đâu, thì P nói đang ở thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cùng với con Trần Viết N (sinh năm 2007), nên C lên thành phố Đ sinh sống cùng với P và N. Đến khoảng ngày 25/9/2018, P, C và N ra Huế thuê nhà nghỉ C ở đường Nguyễn Văn T, phường P, thị xã H để ở lại.

Sau đó, vào khoảng đầu tháng 11 năm 2018 (không xác định được ngày cụ thể), do muốn có tiền chi tiêu trong gia đình và đánh bạc trên mạng Internet, nên P bàn bạc với C lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Hoàng Thị Hà A (là bạn của P). Để chị Hà A tin tưởng, P tắt bóng điện ở phòng ngủ, rồi điện thoại bằng Messenger trên mạng Internet nói chuyện với chị Hà A để thể hiện thời gian ở Mỹ vào ban đêm, còn ở Việt Nam ban ngày. Sau đó, P ở trong phòng ngủ điện thoại nói dối là “có mẹ nuôi của C cho mượn số tiền 600.000.000 đồng, còn thiếu số tiền 600.000.000 đồng cho đủ phần tàu đánh bắt tôm, phần tàu này không bao giờ mất, chỉ thu được lợi nhuận”, nên rủ chị Hà A góp vốn để đóng một nửa phần tàu đánh bắt tôm và đưa điện thoại cho C nói chuyện với vợ chồng chị Hà A và anh Nguyễn A T là “giúp cho 2 vợ chồng anh mượn tiền đi”, thì chị Hà A nói “không có chi mà anh, dạ được rồi” và C nói với anh T “Cảm ơn o, chú cho mượn tiền”.

Khoảng 10 ngày sau, P thuê xe ôtô của anh Nguyễn Đình Quyết T chở P chạy đến đèo Mũi Né thuộc thị trấn L, huyện L, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp chị Hà A lấy số tiền 600.000.000 đồng, rồi đem về giao cho P.

Quá trình điều tra xác định: Trần Văn C chỉ tham gia một làn cùng với P và P lừa đảo chiếm đoạt số tiền 600.000.000đ của chị Hoàng Thị Hà nên nói C điện thoại cảm ơn họ mà không biết P đang lợi dụng mình để tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Ngày 05/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản số 842/VKSTC- VI3 gửi Bộ tư pháp hợp chúng quốc H Kỳ về việc xác minh nhân thân, lai lịch và tiền án, tiền sự của Trần Văn C theo Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự số 10/UTTPHS-CS'HS ngày 06/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, cho đến này chưa nhận được văn bản trả lời của Bộ tư pháp Hợp chủng quốc H Kỳ.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm: 01 điện thoại di động hiệu BIRD màu đỏ, 01 thẻ màu xanh, 01 thẻ màu vàng số 011912004, 01 thẻ màu vàng số 008852991 (đều mang ten Tran Van Chan) và 01 thẻ ở trên có chữ RESIDENT ALIEN (do Trần Văn C giao nộp).

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại yêu cầu bị cáo P bồi thường, với tổng số tiền là 11.715.460.000 đồng gồm: Chị Nguyễn Thị Ái L số tiền 4.615.460.000 đồng, chị Hoàng Thị Hà A số tiền 1.500.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị H số tiền 3.950.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị A1 số tiền 300.000.000 đồng, chị Cái Thị Thanh H số tiền 1.350.000.000 đồng.

A Lê Nhật T yêu cầu chị Huỳnh Thị M bồi thường số tiền 300.000.000 đồng. Còn số tiền 200.000.000 đồng, anh T không yêu cầu P phải bồi thường.

Chị Đào Thị H đã nhận lại tài sản, nên không yêu cầu Đào Thị P bồi thường thiệt hại về dân sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 01/7/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Đào Thị P, Trần Văn P và Trần Văn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm b, g, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đào Thị P 19 (Mười chín) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam ngày 15/11/2019.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 91, 101, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn P 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam 15/11/2019.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn C 04 (Bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam 15/11/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28 tháng 7 năm 2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị số 22/QĐ-VC2 đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn C.

Ngày 08 tháng 7 năm 2021, người bị hại anh Lê Nhật T kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự; yêu cầu xem xét tư cách tham gia tố tụng và buộc bà M có trách nhiệm hoàn trả số tiền do bị cáo P chiếm đoạt cho anh cho anh.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người bị hại, anh Lê Nhật T giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên nội dung kháng nghị và phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Trần Văn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng pháp luật; đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị hại Lê Nhật T; chấp nhận nội dung kháng nghị, không áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Trên cơ sở lời khai của anh Lê Nhật T, chị Huỳnh Thị M và Đào Thị P; Lời khai nhận của bị cáo Trần Văn C với lời khai của Đào Thị P và Trần Văn P thấy phù hợp với lời khai của bị hại Hoàng Thị Hà A và và anh Nguyễn A T và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. HĐXX có đủ căn cứ xác định:

[1.1] Giữa Đào Thị P với anh Lê Nhật T thường xuyên liên hệ mượn trả tiền từ tháng 8/2018. Đến đầu tháng 11 năm 2018, nhằm chiếm đoạt tiền của anh T, nên P nói dối đang ở Mỹ và mượn số tiền 300.000.000 đồng để đóng tàu. Do số tiền lớn nên anh T yêu cầu phải có tài sản bảo đảm và thỏa thuận lãi suất 5%/01 tháng. L dụng lòng tin của chị Huỳnh Thị M, P bảo chị M đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến anh T cầm cố để lấy số tiền 300.000.000 đồng cho P. Ngày 20/11/2018, chị M đến gặp anh T để ký vào giấy mượn số tiền 300.000,000 đồng và anh T chuyền số tiền 300.000.000 đồng cho P.

[1.2] Do muốn có tiền chi tiêu trong gia đình nên khoảng đầu tháng 11 năm 2018, bị cáo Trần Văn C cùng với vợ là Đào Thị P bàn bạc, thống nhất việc rủ bị hại Hoàng Thị Hà A đưa ra thông tin gian dối là đang sinh sống tại Mỹ và yêu cầu bị hại A góp vốn để đóng một nửa phần tàu đánh bắt tôm ở Mỹ, để nhằm chiếm đoạt tiền của vợ chồng chị Hoàng Thị Hà A. Tin tưởng vào vợ chồng C; vợ chồng chị Hà A và anh Nguyễn A T đã giao vợ chồng C số tiền 600.000.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HSST ngày 01/7/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã kết án bị cáo Trần Văn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo và kháng nghị:

[2.1] Xét kháng cáo của anh Lê Nhật T:

Tuy vào ngày 20/11/2018, chị M đến gặp anh T để ký vào giấy mượn số tiền của anh T 300.000.000 đồng nhưng việc chị M ký vào giấy mượn này là do sự thỏa thuận mượn tiền từ trước giữa anh T với Đào Thị P: “mượn thì có và muốn mượn thì phải có tài sản chính chủ để làm tin, thỏa thuận lãi suất 5%/01 tháng” và việc vay mượn giữa P với anh T đã có sự thống nhất là chỉ giữa người mượn (P) và người cho mượn (T) biết với nhau về việc vay mượn số tiền 300.000.000 đồng này: “được, nhưng giữa người mượn và người cho mượn biết với nhau thôi”. Bên cạnh đó, sau khi viết giấy mượn tiền ngày 20/11/2018 thì số tiền 300.000.000 đồng được anh T chuyển cho Đào Thị P theo yêu cầu của P và số tiền lãi hàng tháng đối với số tiền 300.000.000 đồng trên đều do P trả lãi hàng tháng cho anh T và anh T là người trực tiếp nhận tiền lãi do P trả. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Lê Nhật T là người bị hại và tuyên buộc Đào Thị P có nghĩa vụ bồi thường cho anh Lê Nhật T là có căn cứ.

[2.1] Xét kháng nghị số 22/QĐ-VC2 ngày 28/7/2021:

Mặc dù, Đào Thị P có vai trò chủ mưu, trực tiếp đưa ra các thông tin, thủ đoạn lừa dối nhưng các thông tin, thủ đoạn P sử dụng; đó là có chồng là Trần Văn C đang sinh sống tại Mỹ, P cũng đang ở Mỹ và vợ chồng P đang góp vốn để đóng một nửa phần tàu bắt tôm ở Mỹ... để phô trương sự giàu có của gia đình nhằm làm cho các bị hại tin tưởng mà giao tiền nên việc bị cáo Trần Văn C cấu kết cùng Đào Thị P có ý nghĩa quyết định đến việc chiếm đoạt tiền của vợ chồng chị Hà A đối với số tiền 600.000.000 đồng và tạo ra cơ hội cho Đào Thị P chiếm đoạt tiền của chị Hà A các lần sau đó: “tôi đã cùng vợ gọi điện thoại bằng hình ảnh với chị Hà A nói dối là vợ tôi đang ở Mỹ cùng tôi và muốn mượn chị tiền để giúp cho tôi” (lời khai của Trần Văn C); “A C đã cùng gọi điện cho Hà A để giả là tôi cùng anh C đang ở Mỹ (lúc này C đang ở Việt Nam) để tạo lòng tin với Hà A” (lời khai của Đào Thị P). “C cùng P điện thoại cho tôi nói đang ở Mỹ và nói tôi góp vốn 600.000.000 đồng vào đóng tàu .... Còn 3 lần sau P điện thoại cho tôi, P có đưa cho C nói chuyện với tôi nhưng chỉ nói về sức khỏe ... không nói chuyện mượn tiền hay góp vốn làm ăn” (lời khai của chị Hà A). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Trần Văn C có vai trò không đáng kể là không đúng pháp luật; vì không thể áp dụng tình tiết: “có vai trò không đáng kể” nên phải tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn C như kháng nghị của Viện trưởng Viện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho đúng quy định của pháp luật.

[3] Từ các phân tích nêu trên, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của người bị hại là anh Lê Nhật T; chấp nhận kháng nghị số 22/QĐ-VC2, ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Bị hại Lê Nhật T kháng cáo không được chấp nhận nên bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị số 22/QĐ-VC2, ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại là anh Lê Nhật T.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn C 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam 15/11/2019.

- Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Đào Thị P phải bồi thường cho A Lê Nhật T số tiền 165.000.000 đồng.

2/ Về án phí: Bị hại Lê Nhật T phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng.

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

621
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 402/2021/HSPT

Số hiệu:402/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về