TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 184/2022/HS-PT NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 129/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Hà Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2021/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hà Thị L, sinh năm: 1956; nơi ĐKHKTT: Đội 8 xã N T, huyện N H, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; nghề nghiệp: công nhân nghỉ hưu; là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 26/QĐ-UBKTTHU ngày 11/11/2021 của Ủy ban kiểm tra Huyện ủy N H; con ông: Hà Văn M(đã chết) và bà: Vũ Thị T(đã chết); gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 3; chồng Vũ Đức V, sinh năm: 1955; con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nội dung vụ án theo án sơ thẩm được tóm tắt như sau: Từ tháng 6 năm 1987 đến đầu năm 1996, Hà Thị L là công nhân tại Trạm lâm nghiệp huyện N H. Năm 1996 Trạm lâm nghiệp huyện N H không có việc làm, cơ quan đã cho Hà Thị L lấy lại hồ sơ gốc. Tại thời điểm này, Hà Thị L chưa đủ tuổi để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. Vì muốn được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, qua giới thiệu của người quen, L đến gặp ông Nguyễn Huy X, sinh năm 1966, là cán bộ Bảo hiểm xã hội huyện N H để nhờ làm hồ sơ. L nói với ông X: “Chị có hồ sơ này, chú xem có giúp được chị đến khi nào được hưởng chế độ không”. Ông X cầm hồ sơ và nói “Để em xem và nhờ họ, nếu được em trả lời lại”. Sau đó khoảng vài tuần, ông X đến nhà hướng dẫn L khai lại quyển lý lịch khác với nội dung năm sinh của L từ 1956 thành năm sinh 1953. Sau khi khai xong, L đưa lại cho ông X một quyển lý lịch quân nhân ghi năm sinh 1956; một quyển lý lịch cán bộ ghi năm sinh 1953; 01 đơn xin việc đề ngày 05/9/1989 gửi Công ty thủy sản huyện N H ghi năm sinh 1953; 01 đơn xin nghỉ chế độ hưu trí gửi Công ty thủy sản huyện N H với năm sinh 1953 và số tiền 03 triệu đồng để cảm ơn. Trong thời gian này có ông Trần Mạnh Th, sinh năm 1950, trú tại xóm Ph Đ, xã Ng Th, huyện N H đến nhà thông báo với L: “Nếu chị muốn chờ chế độ thì nộp tiền bảo hiểm, cơ quan chị đã giải thể, hồ sơ của chị đã chuyển về Công ty tôi quản lý, tổng số tiền phải nộp là 4.883.000 đồng”. Bản thân L không làm cho Công ty thủy sản huyện N H nhưng vì muốn được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng nên đã nghe theo ông Th, hợp thức hóa khoảng thời gian làm và đóng bảo hiểm tại Công ty thủy sản huyện N H thời gian từ tháng 01/1989 đến tháng 02/1999. L đã nộp số tiền 4.883.000 đồng cho ông Th. Sau khi hồ sơ hoàn tất đã được chuyển đến Phòng Quản lý thu bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Hà (nay là Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định). Ông Vũ Văn Th1(Sinh năm 1973, trú tại: số nhà 33 Vũ Cao, khu đô thị Hòa Vượng, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) là cán bộ Phòng quản lý thu đã tiếp nhận hồ sơ của Hà Thị L, đã thẩm định quá trình tham gia bảo hiểm, đối chiếu danh sách tham gia bảo hiểm xã hội và biên bản đối chiếu thu nộp bảo hiểm xã hội với các đơn vị mà L đóng bảo hiểm xã hội, trong đó có Công ty thủy sản huyện N H. Khi thẩm định xong đã ký nháy và chuyển lại cho bà Phạm Thị M(là Trưởng phòng thu) xem xét, quyết định chuyển lại cho phòng quản lý chế độ chính sách đề nghị cấp số sổ hưu. Ông Vũ Văn Kh (Sinh năm 1941, trú tại Đội 8 xã N H, huyện N H, tỉnh Nam Định) là Phó Trưởng phòng quản lý chế độ chính sách đã xem xét hồ sơ và ký vào bản khai quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của Hà Thị L. Ngày 09/10/1999 ông Nguyễn Thanh L1 (sinh năm 1947, là anh trai của ông X) là Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Hà ký quyết định cho L hưởng chế độ hưu trí hàng tháng; trên quyết định có đóng số sổ bảo hiểm. Hà Thị L đã hưởng chế độ hưu trí từ tháng 10/1999 đến tháng 4/2021 với tổng số tiền là 363.495.541 đồng.
Năm 2015 Hà Thị L đến gặp ông X để lấy lại hồ sơ gốc trong đó có 01 quyển lý lịch quân nhân phần ghi ngày tháng năm sinh đã bị xé mất.
Tại Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định, ông Nguyễn Huy X khai: từ năm 1995 đến tháng 7/1997 làm thủ quỹ, hành chính; từ tháng 8/1997 đến tháng 10/2003 làm cán bộ phụ trách chế độ ốm đau, thai sản vì vậy ông không nhận hồ sơ, tiền và hướng dẫn Hà Thị L khai tăng tuổi.
Cơ quan CSĐT đã tiến hành cho 2 bên đối chất nhưng ông X và Hà Thị Lvẫn giữ nguyên lời khai.
Ông Vũ Văn Kh khai: Năm 1999 ông có ký xác nhận vào bản khai quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của Hà Thị L. Việc ra quyết định về việc hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo quy định là trách nhiệm của Phòng quản lý chế độ chính sách. Đối với hồ sơ của Hà Thị L, ông L1 chỉ đạo Phòng quản lý thu thực hiện và ép ông ký nháy vào quyết định.
Ông Trần Mạnh Th khai – Giám đốc Công ty thủy sản huyện N H đã gửi hồ sơ của Hà Thị Lnhờ ông Th thu tiền bảo hiểm xã hội và ký các giấy tờ hoàn thiện hồ sơ theo sự hướng dẫn của ông L1. Do nể nang nên ông Th đã đến nhà hướng dẫn và đề nghị Hà Thị L nộp số tiền 4.883.000 đồng. Sau đó ông Th đã ký hoàn thiện hồ sơ cho Hà Thị L. Riêng quyển lý lịch cán bộ của Hà Thị Lcó sẵn chữ ký mang tên Nguyễn Thị Mai Hoa là Giám đốc Công ty thủy sản huyện N H (Bà Hoa chết năm 2016), ông Th chỉ đóng dấu Công ty thủy sản huyện N H rồi chuyển lại hồ sơ cho ông L1.
Công an xã N T, huyện N H, tỉnh Nam Định cung cấp bản sao các giấy tờ gồm: Lý lịch đảng viên, Giấy khai sinh, Bằng tốt nghiệp phổ thông, Bằng tốt nghiệp quân y sơ cấp, Giấy chứng minh nhân dân, Bản khai nhận khẩu đều có nội dung năm sinh của Hà Thị L là năm 1956.
Tại Kết luận giám định số 1013/KLGĐ-PC09 ngày 18/8/2021 của Phòng Ký thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Chữ viết, chữ ký trong đơn xin việc đề ngày 05/9/1989 gửi Công ty thủy sản huyện N H ghi năm sinh 1953; Đơn xin nghỉ chế độ hưu trí gửi Công ty thủy sản huyện N H ghi năm sinh 1953; Lý lịch cán bộ ghi năm sinh 1953; Tờ khai cấp sổ bảo hiểm xã hội ghi năm sinh 1953 đều là chữ viết, chữ ký của Hà Thị L.
Tiến hành xác minh tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định xác định: Trường hợp Hà Thị Lsinh ngày 05/11/1956, được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng từ tháng 10/1999 là không đúng quy định về tuổi. Số tiền 363.495.541 đồng là tiền của Nhà nước giao cho Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định quản lý và chi trả theo quy định. Việc Hà Thị Lkhông đi làm và gửi đóng bảo hiểm xã hội tại Công ty thủy sản huyện N H là không đúng quy định.
Tại Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Nam Định, Hà Thị Lkhai nhận bản thân sinh ngày 05/11/1956 và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, áp dụng: điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Hà Thị L30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 589 Bộ luật Dân sự Tuyên tịch thu của bị cáo Hà Thị L số tiền đã chiếm hưởng bất chính do phạm tội mà có để hoàn trả nguồn quỹ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định là cơ quan quản lý và chi trả số tiền là 363.495.541 đồng. Đối trừ số tiền 150.000.000 đồng do bị cáo Hà Thị Lđã nộp khắc phục theo Biên lai số 0004402 ngày 13/12/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định và ủy nhiệm chi số 03 ngày 09/11/2021 của Công an tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo còn phải nộp khắc phục tiếp số tiền 213.495.541 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/12/2021, bị cáo Hà Thị Lcó đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con, cháu bị bệnh tật. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục toàn bộ thiệt hại và cung cấp Giấy khen trong công tác đảng, đoàn thể, giấy xác nhận hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174; về tình tiết giảm nhẹ áp dụng điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Thị L30 (Ba mươi) tháng tù là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình Biên lai nộp khắc phục toàn bộ số tiền theo án sơ thẩm tuyên và nộp án phí hình sự sơ thẩm thể hiện sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, nộp Giấy khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong quá trình là Bí thư Chi bộ, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới tại điểm b, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, bị cáo có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng thỏa mãn các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự sửa bản án hình sự sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Ngày 20/12/2021, bị cáo Hà Thị Lcó đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo trong hạn luật định được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Mặc dù chưa đủ tuổi để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, nhưng vì muốn được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng nên qua giới thiệu của người quen, bị cáo Hà Thị L đến gặp và nhờ ông Nguyễn Huy X là cán bộ Bảo hiểm xã hội huyện N H hướng dẫn làm hồ sơ, sửa năm sinh của Hà Thị L từ sinh năm 1965 thành sinh năm 1953. Tính đến thời điểm năm 1999 Hà Thị L mới 43 tuổi, chưa đủ tuổi để được hưởng chế độ hưu trí. Hà Thị Lkhông làm cho Công ty thủy sản huyện N H nhưng theo hướng dẫn của ông Trần Mạnh Th (Giám đốc Công ty thủy sản Nghĩa Hưng) nộp số tiền 4.883.000 đồng để hợp thức hóa khoảng thời gian làm và đóng bảo hiểm xã hội tại Công ty thủy sản huyện N H từ tháng 10/1989 đến tháng 02/1999 để lừa dối cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định chiếm đoạt số tiền 363.495.541 đồng theo chế độ lương hưu hàng tháng.
[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Hà Thị L đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự và khi lượng hình đã xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Thị L30 (Ba mươi) tháng tù là có căn cứ, phù hợp với quy định.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Hà Thị L, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo nộp giấy xác nhận của chính quyền địa phương gia đình bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ cận nghèo, chồng là thương binh thần kinh không ổn định, bản thân là lao động duy nhất phải nuôi con Vũ Thùy D, sinh năm 1987 bị ảnh hưởng chất độc da cam từ bố, tình trạng thần kinh tâm thần, bác sỹ kết luận hiện tại không còn khả năng lao động và nuôi cháu ngoại Lương Thành H sinh năm 2012 bị thiểu não, khuyết tật trí tuệ có Giấy xác nhận khuyết tật của UBND xã N H. Mặc dù điều kiện hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhưng bị cáo cũng đã tự nguyện nộp số tiền 213.695.541 đồng để khắc phục hậu quả và nộp án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0004507 ngày 21/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định và cung cấp Giấy khen có thành tích xuất sắc khi tham gia công tác Đảng, đoàn thể. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm b, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
[5] Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Bị cáo có nhân thân tốt, đã được nhận huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, tích cực tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương, gia đình bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mặc dù bị cáo tuổi đã cao nhưng vẫn là lao động chính trong gia đình, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù cũng đảm bảo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật. Do vậy, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Hà Thị L và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo theo quy định. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, như nhận định ở trên thấy quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp, do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[6] Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 213.695.541 đồng để khắc phục hậu quả và tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0004507 ngày 21/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định.
[7] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
2. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Thị L, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, như sau:
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b,s,v khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Hà Thị L 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (29/3/2022). Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã N T, huyện N H, tỉnh Nam Định để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 213.695.541 đồng để khắc phục hậu quả và tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0004507 ngày 21/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định.
3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 184/2022/HS-PT
Số hiệu: | 184/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về