Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 16/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN - TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 183/2023/TLST-HS ngày 30/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2023/QĐXXST-HS ngày 28/11/2023; quyết định hoãn phiên toà số 153/HSST-QĐHPT ngày 27/12/2023 và Thông báo số 07/2024/TB-TA ngày 11/01/2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Xuân H, giới tính: Nam; sinh năm 2001 tại tỉnh E; nơi cư trú: Tổ 35, khu phố 4, phường W, thành phố Q, tỉnh B; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Quốc T sinh năm 1970 và bà Phan Thị Y sinh năm 1981; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Thanh S, giới tính: Nam; sinh năm 1991 tại B; nơi cư trú: Tổ 2, khu phố 1, phường X, thành phố Q, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn F sinh năm 1967 và bà Trần Thị Mỹ L sinh năm 1965; vợ: Đặng Thị Lệ J sinh năm 1994, có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Đào Thị Hồng K, địa chỉ: Tổ 55, khu vực 10, phường C, thành phố Q, tỉnh B. (Vắng mặt) - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Đoàn Quốc B, địa chỉ: tổ 2, khu vực 1, phường Đ, thành phố Q, tỉnh B(Vắng mặt) Anh Lê Duy P, địa chỉ 05 đường Z, thành phố Q, tỉnh B (Vắng mặt) Anh Trần Văn O, địa chỉ 34 đường R, thành phố Q, tỉnh B (Vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Hồng A, địa chỉ 57B đường V, thành phố Q, tỉnh B. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 25/3/2022, Nguyễn Xuân H có ý định thuê xe mô tô của các cơ sở cho thuê xe ở thành phố Quy Nhơn để chiếm đoạt, mang đi cầm cố lấy tiền đưa cho bạn là Dương Lê I mượn để I trả nợ.

Đến khoảng 11h30’ cùng ngày, Nguyễn Xuân H sử dụng tài khoản Facebook “Nguyễn Xuân H” liên hệ với trang “Cho Thuê Xe Máy quy nhơn Lh 036603****” của chị Đào Thị Hồng K là chủ cơ sở cho thuê xe “Đ*ng Kh**” hỏi thuê xe mô tô loại “tay ga”. H nói dối với chị K thuê xe để sử dụng, chị K báo giá 130.000 đồng/ngày, H đồng ý. Khoảng 13h00’ cùng ngày, chị K cùng Trần Văn Cường điều khiển xe mô tô biển số: 77L1-6**.** hiệu Honda loại AirBlade, màu Đen đến địa điểm hẹn trên đường Diên Hồng gặp H. Hai bên thỏa thuận miệng cho thuê xe mô tô 77L1-6**.** trong vòng 03 ngày, với giá 130.000 đồng/ngày. H trả cho chị K 390.000 đồng (tiền thuê xe 3 ngày), chị K giao xe cho H. Đến khoảng 14h00’ cùng ngày, H cùng Dương Lê I điều khiển xe mô tô 77L1-6**.** đến quán cà phê “Góc Phố” tại ngã tư Ỷ Lan – Bạch Đằng gặp Đoàn Quốc B để cầm cố xe cho B. Tại đây, H nói dối: “Xe mô tô 77L1-6**.** của H, sử dụng từ lâu, bị rơi mất giấy tờ, chưa làm lại, đang cần tiền gấp nên cầm xe”, B tin tưởng nên đồng ý cầm xe này với giá 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). H nhận tiền và giao xe mô tô 77L1- 6**.** cho B.

Đến cuối tháng 9/2022, B không thấy H liên hệ lấy lại xe mô tô 77L1-6**.** nên mang xe đến bán cho Lê Duy P lấy 14.000.000 đồng. Ngày 02/10/2022, P bán xe này cho Nguyễn Thanh S với giá 17.000.000 đồng.

Ngày 17/10/2022, Nguyễn Thanh S nảy sinh ý định đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 77L1-6**.** để sử dụng tham gia giao thông (nhằm tránh việc cơ quan chức năng phát hiện, xử lý) nên đã sử dụng tài khoản Facebook “T** Tên H**” liên hệ với 01 trang Facebook (chưa rõ tên, thông tin chủ trang) đặt làm giả giấy chứng nhận xe mô tô 77L1-6**.**. Ngày 03/12/2022, S nảy sinh ý định bán xe mô tô 77L1-6**.** nên sử dụng tài khoản Facebook “T** Tên H**” đăng lên trang “Mua Bán Xe Máy Cũ Bình Định 77” với nội dung: “cần tiền bán xe ab 2016 hoặc đổi xe sirius để lấy ít tiền ce mình bản số 77L1 trước mua lại xe zin nguyên chiếc giấy tờ đầy đủ viết giấy mua bao tranh chấp giá muốn bán 22 triệu”, kèm theo hình ảnh của xe mô tô 77L1-6**.**. Khoảng 09h50’ cùng ngày, Trần Văn O (nhân viên cơ sở thuê xe “Đ**g Kh**”) lướt Facebook thấy bài đăng của S nên nói lại với chị K rồi liên hệ hẹn gặp S tại quán cà phê “Ngon” thuộc Phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn. Lúc này, O nhờ bạn là Nguyễn Hồng A (Sinh năm: 1995; trú: 57B đường V, thành phố Q, tỉnh B) cùng đi đến gặp S. Tại đây, O đứng trước quán chờ, A vào bên trong gặp S để trao đổi về việc mua bán xe. A hỏi xe có giấy tờ không, S trả lời xe đầy đủ giấy tờ và đưa chứng nhận đăng ký xe mô tô 77L1-6**.** đã đặt làm giả cho A xem rồi dẫn A ra trước quán xem xe. Lúc này, O trình báo sự việc đến Công an phường Đống Đa tiến hành thu giữ xe mô tô 77L1- 6**.** cùng chứng nhận đăng ký xe mô tô trên từ S, còn chị K đến Công an Phường Lý Thường Kiệt trình báo. Công an Phường Lý Thường Kiệt tiến hành xác minh, củng cố hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh theo thẩm quyền.

Ngày 24/02/2023, Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quy Nhơn kết luận: Xe mô tô biển số: 77L1-6**.**, nhãn hiệu HONDA, loại AirBlade, màu Đen, số máy: JF63E141****, số khung: RLHJF630XFZ41**** có giá tại thời điểm bị chiếm đoạt là 17.000.000 đồng.

Ngày 24/3/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 022***, ghi tên chủ xe: ĐÀO THỊ HỒNG K 1981, địa chỉ: T55, KV10, phường C, thành phố Q; biển số đăng ký: 77L1-6**.** là chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã thu giữ: 01 (một) xe mô tô biển số: 77L1-6**.**, nhãn hiệu HONDA, loại AirBlade, màu Đen, số máy: JF63E141****, số khung: RLHJF630XFZ41****, đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô màu vàng, tên chủ xe: Đào Thị Hồng K – Sinh năm:1981, địa chỉ: Tổ 55, khu phố 10, phường C, thành phố Q, nhãn hiệu HONDA, số máy: JF63E141****, số khung: RLHJF630XFZ41****, biển số: 77L1-6**.**; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô màu xanh, tên chủ xe: Đào Thị Hồng K – Sinh năm: 1981, địa chỉ: Tổ 55, khu phố 10, phường C, thành phố Quy Nhơn, đăng ký lần đầu: 05/7/2016; 01 (một) chứng minh nhân dân số: 21553****, tên: NGUYỄN XUÂN H, do Công an tỉnh Bình Định cấp ngày: 16/3/2016. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 77L1-6**.** cùng chứng nhận đăng ký xe mô tô màu vàng trên cho Đào Thị Hồng K.

Về dân sự: Bị hại Đào Thị Hồng K đã nhận lại xe mô tô 77L1-6**.**, không yêu cầu bồi thường dân sự; Nguyễn Xuân H đã bồi thường số tiền 14.000.000 đồng cho Đoàn Quốc B, B đưa số tiền 14.000.000 đồng này cho Lê Duy P, P đưa số tiền 16.500.000 đồng cho Nguyễn Thanh S. B, P, S không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại bản cáo trạng số 176/CT-VKSQN ngày 24/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự và Nguyễn Thanh S về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thanh S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thanh S.

Đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 174, các điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Xuân H, xử phạt bị cáo H từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách; Áp dụng khoản 1 Điều 341, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thanh S, xử phạt bị cáo S từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách.

- Các bị cáo không bào chữa, không tranh luận.

- Các bị cáo nói lời sau cùng: xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Do cần tiền để cho bạn Dương Lê I mượn trả nợ, ngày 25/3/2022 Nguyễn Xuân H đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối thuê xe mô tô 77L1-6**.** của chị Đào Thị Hồng K trị giá 17.000.000 đồng rồi mang đến cầm cố cho anh Đoàn Quốc B lấy số tiền 12.000.000 đồng. Đến cuối tháng 9/2022, B không thấy H liên hệ lấy lại xe mô tô 77L1-6**.** nên mang xe đến bán cho Lê Duy P lấy 14.000.000 đồng. Ngày 02/10/2022, P bán xe này cho Nguyễn Thanh S với giá 17.000.000 đồng. Ngày 17/10/2022, Nguyễn Thanh S nảy sinh ý định làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 77L1-6**.** nên thông qua mạng xã hội Facebook Nguyễn Thanh S đã đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy rồi sử dụng để tham gia giao thông nhằm tránh việc cơ quan chức năng phát hiện, xử lý và sử dụng để bán xe mô tô 77L1-6**.** cho người khác.

Ngày 24/3/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 022***, ghi tên chủ xe: Đào Thị Hồng K 1981, địa chỉ: T55, KV10, phường C, thành phố Q; biển số đăng ký: 77L1- 6**.** là chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội. Hành vi trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trong đó hành vi của Nguyễn Xuân H đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương; hành vi của Nguyễn Thanh S trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý con dấu, tài liệu, giấy tờ của cơ quan, tổ chức nên cần phải xử các bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy rằng:

Các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thanh S có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, gia đình bị cáo có công với cách mạng, ông nội bị cáo được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đối với Nguyễn Thanh S bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

HĐXX thấy rằng, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, đủ điều kiện để được áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự nên HĐXX xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tù có điều kiện, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Đào Thị Hồng K đã nhận lại xe mô tô 77L1-6**.**, không yêu cầu bồi thường dân sự; Nguyễn Xuân H đã bồi thường số tiền 14.000.000 đồng cho anh Đoàn Quốc B, anh B đưa số tiền 14.000.000 đồng này cho anh Lê Duy P, anh P đưa số tiền 16.500.000 đồng cho bị cáo Nguyễn Thanh S. Anh B, anh P, S không yêu cầu bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô màu xanh, tên chủ xe Đào Thị Hồng K, sinh năm 1981, địa chỉ tổ 55, khu phố 10, phường C, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, đăng ký lần đầu 05/7/2016; 01 Chứng minh nhân dân số 21553**** tên Nguyễn Xuân H do Công an tỉnh Bình Định cấp ngày 16/3/2016. Đây là vật chứng có trong hồ sơ vụ án nên lưu kèm hồ sơ vụ án.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Vấn đề khác: Đối với Đoàn Quốc B có hành vi nhận cầm cố xe môtô 77L1-6**.** từ Nguyễn Xuân H, Lê Duy P có hành vi mua xe mô tô 77L1-6**.** từ B nhưng B, P không biết xe mô tô 77L1-6**.** là tài sản do chiếm đoạt mà có nên B, P nên không phạm tội. Ngoài ra, Nguyễn Xuân H khai do Dương Lê I cần tiền trả nợ nên nhờ H thuê xe đem cầm cố lấy tiền đưa cho I. Tuy nhiên, việc I nhờ H thuê xe đem cầm cố cũng như giao tiền cho I chỉ có H và I biết, không có người làm chứng khác. Sau khi lấy tiền, I đã đi khỏi địa phương, không xác định được đi đâu, làm gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Quy Nhơn đã ra Quyết định tách hành vi của Dương Lê I để tiếp tục điều tra xử lý theo quy định.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174, các điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Xuân H) Căn cứ khoản 1 Điều 341, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Thanh S) Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

2. Về hình phạt:

2.1 Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân H cho UBND phường W, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thanh S cho UBND phường Bùi Thị Xuân, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.

3. Về xử lý vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô màu xanh, tên chủ xe Đào Thị Hồng K, sinh năm 1981, địa chỉ tổ 55, khu phố 10, phường C, thành phố Q, tỉnh B, đăng ký lần đầu 05/7/2016; 01 Chứng minh nhân dân số 21553**** tên Nguyễn Xuân H do Công an tỉnh Bình Định cấp ngày 16/3/2016.

4. Án phí: Các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thanh S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 16/2024/HS-ST

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về