TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Võ Văn C (tên gọi khác: Không), S năm 1987; nơi S và nơi cư trú: Thôn B, xã Ân H, huyện H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn M, S năm 1957 (chết) và bà Phạm Thị T, S năm 1963; vợ con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/4/2006, bị TANT) quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù giam về tội Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Ngày 22/3/2021, bị Cơ quan CSĐT huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 18/9/2021, bị TAND thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 11/3/2022, bị TAND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đang chấp hành án. Có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Lịch S (tên gọi khác: Không), S năm 1988; nơi S và nơi cư trú: Thôn B, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành Q, S năm 1960 và bà Lê Thị X, S năm 1962; vợ Đặng Thị Mỹ Y, S năm 1988; con ruột 02 người, lớn nhất S năm 2015, nhỏ nhất S năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/3/2021, bị Cơ quan CSĐT huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 18/9/2021, bị TAND thành phố Tuy Hòa xử phạt 02 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 11/3/2022, bị TAND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đang chấp hành án. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Em Đoàn Duy A, S ngày 08/01/2003; địa chỉ: Thôn p, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên.
Người đại diện hợp pháp của em A là vợ chồng ông Đoàn Văn H - S năm 1979, bà Nguyễn Thị Tố N - S năm 1986; địa chỉ: Thôn P, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt (Có yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác nên Võ Văn C và Nguyễn Lịch S đã bàn bạc mua bếp ga hiệu “REENI” với giá 420.000 đồng và đặt làm giả thẻ nhân viên giao hàng của cửa hàng Điện máy xanh rồi điều khiển xe ô tô loại bán tải BKS: 51C- 32142 (xe của C) đi từ Thành phố Q, tỉnh Bình Định vào địa bàn thị xã S, tỉnh Phú Yên mục đích tìm người để chiếm đoạt tài sản.
Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, C và S đến Ngã 3 cây Me đường Phạm Văn Đ thuộc khu phố L, phường X, thị xã S thì gặp em Đoàn Duy A - sinh năm 2003 đang điều khiển xe gắn máy trên đường đi học, nên S gọi em A dừng lại và nói với A đi giao dùm 01 bếp ga hiệu REENI trị giá là 13.800.000 đồng và nhờ A đem đến tại Điện máy xanh chi nhánh S để giao cho người nhận và hứa trả tiền công cho em A với số tiền 2.000.000 đồng. Để tạo lòng tin, S đưa cho A thẻ nhân viên giao hàng và chìa khóa xe ô tô; S nói hôm trước có người giao rồi đi luôn nên mất tiền và phát hiện em A đang cầm điện thoại kiểu dáng Iphone 7 Plus màu đen trên tay nên S bảo em A đưa điện thoại cho S cầm để làm tin, khi nào giao hàng xong thì quay lại đây S trả lại và được em A đồng ý. A chở bếp ga vào cửa hàng Điện máy xanh chi nhánh S để giao, còn C điều khiển xe ô tô chở S bỏ trốn. Lúc này A vào cửa hàng Điện máy xanh chi nhánh S để giao nhung không có ai nhận nên quay lại tìm S và C nhưng không gặp, biết mình bị lừa nên A đến Công an phường Xuân Yên để trình báo sự việc. Đến ngày 12/01/2021 C và S đến địa bàn thành phố T, tỉnh Phú Yên tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì bị bắt giữ.
Ngoài ra vào các ngày 07/12/2020 đến ngày 12/01/2021 cũng với thủ đoạn trên, Võ Văn C và Nguyễn Lịch S còn cùng nhau thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản 08 vụ tại thành phố T, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên và thành phố Q, tỉnh Bình Định; 01 vụ tại huyện T, tỉnh Phú Yên; 01 vụ tại huyện P, tỉnh Bình Định. Trong thời gian trên, C và S không có nghề nghiệp, sử dụng tài sản phạm tội mà có làm nguồn sống chính. Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo C và S đã được TAND thành phố Tuy Hòa xét xử tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021, TAND huyện Tuy An xét xử tại bản án số 07/2022/HS-ST ngày 11/3/2022.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐ ĐG ngày 05/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Sông cầu kết luận: Điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7 plus, màu đen, “32G” đã qua sử dụng có giá trị là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).
Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus 32G, màu đen đã trả lại cho bị hại Đoàn Duy A; 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 51C-321.42 đã được xử lý tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021 của TAND thành phố Tuy Hòa; 01 bếp ga hiệu “REENI” màu đen; 01 thẻ nhân viên Điện máy xanh có tên NV: Võ Văn C, MNV: 368789, chức vụ: NV giao hàng và 01 chìa khóa màu đen, ký hiệu KIA.
Trách nhiệm dân sự: Bị hại em Đoàn Duy A đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo C và S bồi thường gì thêm.
Cáo trạng số 36/CT-VKSSC ngày 11/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu đã truy tố bị cáo Võ Văn C và Nguyễn Lịch S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Võ Văn C, Nguyễn Lịch S khai nhận tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông cầu tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo tại Cáo trạng số 36/CT-VKSSC ngày 11/8/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Văn C và Nguyễn Lịch S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Văn C từ 02 năm 06 tháng tù - 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Lịch S từ 02 năm tù - 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung do các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản.
- Về vật chứng vụ án: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 bếp ga hiệu “REENI” màu đen. Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ nhân viên Điện máy xanh có tên NV: Võ Văn C, MNV: 368789, chức vụ: NV giao hàng và 01 chìa khóa màu đen, ký hiệu KIA. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus 32G, màu đen đã trả lại cho bị hại và 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 51C-321.42 đã được xử lý tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021 của TAND thành phố Tuy Hòa nên đề nghị không xem xét.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị không xem xét.
Trong phần tranh luận: Bị cáo C, S đồng ý với nội dung bản luận tội, không tranh luận. Các bị cáo nói lời sau cùng, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Điều tra viên, của Cơ quan điều tra Công an thị xã Sông cầu và Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông cầu trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại Đoàn Duy A vắng mặt. Xét thấy bị hại đã có lời khai tại hồ sơ vụ án, đã nhận lại tài sản và không phát S yêu cầu bồi thường, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[3] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Võ Văn C và Nguyễn Lịch S tại phiên toà và tại cơ quan điều tra phù hợp nhau, phù hợp với lời khai người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/01/2021 tại khu phố L, phường X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, Võ Văn C và Nguyễn Lịch S đã có hành vi gian dối giả làm nhân viên Điện máy xanh, đưa ra thông tin gian dối bếp ga “REENI” có giá trị 13.800.000đ, nhờ bị hại giao hàng tại Điện máy xanh Sông cầu, thu tiền của người nhận 13.300.000đ và để lại cho người nhận 500.000đ nhưng trên thực tế không có người nhận, C, S hứa trả công cho bị hại 2.000.000đ, đồng thời giao thẻ nhân viên giao hàng, chìa khóa xe ô tô tải cho bị hại để tạo lòng tin và yêu cầu bị hại giao điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen 32G cho C, S tạm thời quản lý, đợi bị hại giao hàng xong, thu tiền về sẽ nhận lại tài sản. Sau khi bị hại giao tài sản, C và S nhanh chóng tẩu thoát, chiếm đoạt tài sản, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bằng thủ đoạn trên, C và S đã chiếm đoạt của bị hại Đào Duy A điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen 32G trị giá 4.000.000 đồng. Ngoài ra từ ngày 07/12/2020 đến ngày 12/01/2021 cũng với thủ đoạn trên, Võ Văn C và Nguyễn Lịch S liên tiếp cùng nhau thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản 08 vụ tại thành phố T, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên và thành phố Q, tỉnh Bình Định; 01 vụ tại huyện T, tỉnh Phú Yên; 01 vụ tại huyện P, tỉnh Bình Định. Trong khoảng thời gian trên, C và S không có nghề nghiệp ổn định, lấy các lần phạm tội làm nghề S sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo C và S đã được TAND thành phố Tuy Hòa xét xử tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021, TANT) huyện Tuy An xét xử tại bản án số 07/2022/HS-ST ngày 11/3/2022. Như vậy, tại thị xã S, tỉnh Phú Yên, bị cáo Võ Văn C và Nguyễn Lịch S tuy chỉ lừa đảo chiếm đoạt của bị hại Đào Duy A điện thoại di động trị giá 4.000.000đ nhưng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Do đó, truy tố tại Cáo trạng số 36/CT-VKSSC ngày 11/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử phạt nghiêm đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới đủ sức răn đe cũng như phòng ngừa chung.
[5] Xét vai trò, tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[5.1] Đối với bị cáo C: Là người chủ mưu, cầm đầu đồng thời là người thực hành, vạch kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội, chuẩn bị công cụ phạm tội (đặt mua bếp ga, làm thẻ nhân viên Điện máy xanh chứa thông tin của C, chuẩn bị phương tiện xe ô tô, chìa khóa xe ô tô giao bị hại), trực tiếp điều khiển xe ô tô, lôi kéo rủ rê Nguyễn Lịch S cùng tham gia phạm tội, chọn vị trí và đối tượng thực hiện tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, thực hiện hành vi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình áp dụng đối với bị cáo.
[5.2] Đối với bị cáo S: Khi được bị cáo C rủ rê thì tích cực tham gia thực hiện tội phạm cùng với C, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành trên cơ sở kế hoạch và công cụ phạm tội do C đã chuẩn bị. Mặt khác, bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có cha ruột - ông Nguyễn Thành Q thuộc đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975, được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định theo Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo S, xét xử hình phạt thấp hơn bị cáo C.
[5.3] Hình phạt của bị cáo C, S tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021 của TAND thành phố Tuy Hòa đã được tổng hợp tại bản án số 07/2022/HS-ST ngày 11/3/2022 của TAND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vì bản án số 07/2022/HS-ST của TAND huyện Tuy An chưa có hiệu lực pháp luật nên TAND thị xã Sông Cầu không tổng hợp hình phạt đối với bị cáo C, S.
[5.4] Xét bị cáo C, S đều không có tài sản, công việc tạo thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về xử lý vật chứng:
[6.1] Đối với vật chứng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus 32G, màu đen thuộc sở hữu hợp pháp của bị hại, việc Cơ quan CSĐT trao trả là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6.2] Vật chứng là 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 51C-321.42 đã được xử lý tại bản án số 64/2021/HSST ngày 18/9/2021 của TAND thành phố Tuy Hòa nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6.3] Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 bếp ga hiệu “REENI” màu đen do hên quan đến hành vi phạm tội.
[6.4] Tịch thu tiêu hủy công cụ phạm tội gồm 01 thẻ nhân viên Điện máy xanh có tên NV: Võ Văn C, MNV: 368789, chức vụ: NV giao hàng và 01 chìa khóa màu đen, ký hiệu KIA.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không phát S yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Võ Văn C có hành vi làm giả thẻ nhân viên giao hàng Điện máy xanh nhưng vì cửa hàng Điện máy xanh không phát hành thẻ cho nhân viên thuộc cửa hàng nên hành vi của Võ Văn C không phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
[9] Về án phí: Bị cáo C, S bị kết án phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Võ Văn C;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Lịch S;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
2. Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn C, Nguyễn Lịch S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
3. Xử phạt:
Bị cáo Võ Văn C 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng hình phạt bổ sung: Không.
Bị cáo Nguyễn Lịch S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng hình phạt bổ sung: Không.
4. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét 5. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 bếp ga hiệu “REENI” màu đen.
Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ nhân viên Điện máy xanh (tên Võ Văn C, MNV: 368789, chức vụ: NV giao hàng) và 01 chìa khóa màu đen, ký hiệu KIA.
Các vật chứng được ghi nhận tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2021 giữa Cơ quan CSĐT - Công an thị xã Sông Cầu và Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Sông Cầu.
6. Về án phí: Bị cáo Võ Văn C, Nguyễn Lịch S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 14/2022/HS-ST
Số hiệu: | 14/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Sông Cầu - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về