Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 10/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2023/TLST - HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST - HS ngày 21 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Trung H, sinh năm: 1983; nơi cư trú: Khu vực X, phường 7, thành phố Vị Thanh, tỉnh G; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng M và bà Tô Thị N; vợ: Trịnh Thị Phương D; con: 01 người sinh năm 2006; tiền án: tiền án: 01 (ngày 05/3/2021 bị Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ tuyên phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 05/10/2021 đã chấp hành xong; tiền sự: không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh T– Văn phòng luật sư T, thuộc đoàn luật sư tỉnh G. Có mặt.

- Người bị hại:

+ Bà Lê Thị T, sinh năm: 1977; Nơi cư trú: Ấp 7, xã VT, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Anh Mai Hà Ngọc H, sinh năm: 2004; Nơi cư trú: Ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Ông Huỳnh Thanh T, sinh năm: 1989; Nơi cư trú: Ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm: 1990; Nơi cư trú: ấp 1, xã VĐ, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1967; Nơi cư trú: ấp 9, xã VT, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Chị Trương Thị Thúy A, sinh năm: 1994; Nơi cư trú: ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Bà Huỳnh Thị Kiều T, sinh năm: 1986; Nơi cư trú: ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Ông Lương Hoàng M, sinh năm: 1960; Nơi cư trú: ấp 8, xã VTĐ, huyện Long Mỹ, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Ngọc S, sinh năm: 1962; Nơi cư trú: Khu vực BT, phường VT, thị xã Long Mỹ, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Hoàng M; Nơi cư trú: Khu vực X, phường X, thành phố Vị Thanh, tỉnh G. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 16/7/2022, Nguyễn Trung H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95B1- xxxxx đến tiệm tạp hóa của chị Lê Thị T, đăng ký thường trú: ấp 7, xã VT, huyện V, tỉnh G hỏi mua 01 thùng bia hiệu Tiger bạc với giá 400.000 đồng nhưng không trả tiền và nói H tên là Phương, làm ở Trường Chính trị tỉnh G, hẹn đi rút tiền rồi quay lại trả cho chị T rồi bỏ thùng bia lên xe mô tô chở đi. Đến ngày 18/7/2022, chị T không thấy H quay lại trả tiền nên trình báo tới Công an xã Vị Trung (bút lục 03).

Quá trình điều tra Nguyễn Trung H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Tiger bạc H mang thùng bia về uống với T (chưa rõ nhân thân lai lịch) ở phường 5, thành phố Vị Thanh hết. Ngoài ra, Nguyễn Trung H còn thực hiện 08 vụ lừa đảo khác, cụ thể như sau:

* Vụ thứ nhất: Khoảng 12 giờ ngày 06/5/2022, H điều khiển xe mô tô , (không nhớ biển kiểm soát) đến đại lý bia Đ, thuộc ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G thì gặp anh Mai Hà Ngọc H, H hỏi mua 01 thùng bia hiệu Tiger nâu với giá 365.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với anh H: “Chú là con của ông ba M nè, có gì gặp ổng lấy tiền” rồi để lên xe mô tô chở đi. Sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Tiger nâu, H không nhớ đã bán lại hay để uống.

* Vụ thứ hai: Khoảng 10 ngày sau ngày 06/5/2022, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95B1- xxxxx đến đại lý bia Đ, thuộc ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G thì gặp anh Huỳnh Thanh T, H hỏi mua 01 thùng bia hiệu Tiger nâu với giá 360.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với anh T rằng H tên là T, nhà ở gần nhà thờ, thuộc ấp 1, thị trấn N, huyện V, đi đám quên mang theo tiền, hẹn chiều quay lại trả tiền rồi để thùng bia lên xe mô tô chở đi. Sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Tiger nâu, H không nhớ đã bán lại hay để uống.

* Vụ thứ ba: Ngày 30/5/2022, H điều khiển xe mô tô (không nhớ biển kiểm soát) đến tiệm tạp hóa của chị Nguyễn Thị Kim C, thuộc ấp 1, xã VĐ, huyện V, tỉnh G hỏi mua 01 thùng bia hiệu Sài Gòn Lager với giá 250.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với chị C rằng H tên là T, con ông N, nhà ở bên sông, bến đò kênh lớn và là bạn của chồng chị C, hẹn chiều quay lại trả tiền rồi để thùng bia lên xe mô tô chở

* Vụ thứ tư: Khoảng 09 giờ ngày không xác định trong tháng 5/2022, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95H1-xxxx đến tiệm tạp hóa của chị Nguyễn Thị T, thuộc ấp 9, xã VT, huyện V, tỉnh G hỏi mua 01 thùng bia hiệu Tiger nâu với giá 370.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với bà Th rằng H tên là T1, làm ở Uỷ ban nhân dân huyện V, hẹn đến chiều sau khi đi đám về quay lại trả tiền rồi để thùng bia lên xe mô tổ chở đi. Sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Tiger nâu, H không nhớ đã bán lại hay để uống.

* Vụ thứ năm: Ngày không xác định trong tháng 5/2022, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65P6-xxxx đến tiệm bán thịt trâu của chị Trương Thị Thúy A, thuộc ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G hỏi mua 01kg thịt trâu, loại nạm cổ với giá 140.000 đồng/kg nhưng không trả tiền và nói H biết cha mẹ của chị Lan, hẹn qua Vị Thanh để rút tiền về trả. Sau khi chiếm đoạt được 01 kg thịt trâu, H mang về nhà để nấu ăn và nói do H mua.

* Vụ thứ sáu: Ngày không xác định trong tháng 5/2022, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65P6 - xxxx đến tiệm bán gà của chị Huỳnh Thị Kiều T thuộc ấp 1, thị trấn N, huyện V, tỉnh G hỏi mua 02 con gà trống tơ, 01 con gà nặng 1,3 kg, 01 con gà nặng 1,4kg với giá 110.000 đồng/kg nhưng không trả tiền và hẹn lát quay lại trả tiền. Sau khi chiếm đoạt được 02 con gà trống tơ, H mang về nhà để nấu ăn và nói do H mua.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 19/KL-HĐ.ĐGTS, ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện V, tỉnh G, tổng giá trị tài sản thiệt hại của các vụ trộm cắp tài sản do Nguyễn Trung H thực hiện:

2.197.000₫ (Hai triệu một trăm chín mươi bày ngàn đồng). Trong đó:

- 01 (một) thùng bia Tiger bạc 24 lon, loại lon cao, màu trắng, loại 330ml do Công ty TNHH nhà máy bia Heineken sản xuất. Với số tiền là 400.000₫ (Bốn trăm ngàn đồng).

- 03 (ba) thùng bia Tiger nâu 24 lon, loại lon lùn, màu xanh, loại 330ml do Công ty TNHH nhà máy bia Heineken sản xuất. Với số tiền là 1.100.000₫ (Một triệu một trăm ngàn đồng).

- 01 (một) thùng bia Sài Gòn Lager 24 lon, màu xanh, loại 330ml do Công ty bia rượu nước giải khát Sài Gòn sản xuất. Với số tiền là 250.000₫ (Hai trăm năm mươi ngàn đồng).

- 02 (hai) con gà trống tơ, 01 con gà trọng lượng 1,3kg, 01 con gà trọng lượng 1,4 kg. Với số tiền là 297.000₫ (Hai trăm chín mươi bảy ngàn đồng).

- 01 (một) kg thịt trâu loại nạm cổ. Với số tiền là 140.000₫ (Một trăm bốn mươi ngàn đồng).

* Vụ thứ bảy: Khoảng 11 giờ, ngày 19/5/2022, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95H1-xxxx đến tiệm tạp hóa của ông Lương Hoàng M, thuộc ấp 8, xã VTĐ, huyện Long Mỹ, tỉnh G hỏi mua 01 thùng bia hiệu Sài Gòn Lager với giá 260.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với ông M: “Con đi đám, chút con rước con của con, con về trả tiền chứ” rồi để thùng bia lên xe mô tô chở đi. Sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Sài Gòn Lager, H không nhớ đã bán lại hay để uống.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 19/KL-HĐ.ĐGTS, ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Long Mỹ, tỉnh G kết luận: 01 (một) thùng bia SAIGON Lager 24 lon, màu xanh, loại 330ml với số tiền là 248.000₫ (Hai trăm bốn mươi tám ngàn đồng).

* Vụ thứ tám: Ngày không xác định trong tháng 7/2022, H điều khiển xe mô tô (không nhớ biển kiểm soát) đến tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1962, thuộc khu vực BT, phường VT, thị xã Long Mỹ, tỉnh G hỏi mua 01 thùng bia hiệu Tiger bạc với giá 400.000 đồng nhưng không trả tiền và nói với bà Sương rằng H tên là T2, hẹn đến chiều đi rút tiền về trả rồi để thùng bia lên xe mô tô chở đi. Sau khi chiếm đoạt được 01 thùng bia hiệu Tiger bạc, H không nhớ đã bán lại hay để uống.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 02/HĐĐGTS, ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Long Mỹ, tỉnh G kết luận: 01 (một) thùng bia Tiger bạc 24 lon, loại 330ml với số tiền là 400.000₫ (Bốn trăm ngàn đồng).

Tại cáo trạng số 17/CT – VKS - HVT ngày 04 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trung H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trung H đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 điểm b, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trung H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mức hình phạt từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ; Không áo dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Trung H đã tác động gia đình khắc phục xong cho các bị hại. Các bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Trung H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo hiện đang bệnh thần kinh nhẹ và phải uống thuốc điều trị của Trung tâm y tế thành phố Vị Thanh, bị cáo đã biết hành vi của bản thân là sai trái sẽ sửa đổi bản thân nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh T trình bày: Thống nhất về tội danh và mức hình phạt mà kiểm sát viên đã đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng tại phiên tòa. Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố các đương sự đã cung cấp lời khai và bị hại có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự T hành xét xử vắng mặt.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét lời khai của bị cáo Nguyễn Trung H tại phiên tòa đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với nội dung bản cáo trạng, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định:

Từ ngày 06/5/2022 đến ngày 16/7/2022, bị cáo H đã dùng thủ đoạn gian dối (cụ thể là nói tên, nơi ở, nơi làm việc khác không đúng) để mua bia của Lê Thị T, Mai Hà Ngọc H, Huỳnh Thanh T, Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Thị T, Lương Hoàng M, Nguyễn Ngọc S, mua thịt trâu của Trương Thị Thúy A, gà trống tơ của Huỳnh Thị Kiều T tại địa bàn huyện V, huyện Long Mỹ và thị xã Long Mỹ. Mặc dù mỗi lần thực hiện hành vi để chiếm đoạt tài sản của người khác đều dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo Nguyễn Trung H có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Như vậy hành vi trên của bị cáo Nguyễn Trung H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ đó có thể khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng với bản chất tham lam, lười lao động và xem thường pháp luật đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Tội phạm đã hoàn thành, vì vậy bị cáo phải chịu chế tài của pháp luật.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trung H, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[3.1] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình đã gây ra, bị cáo đã tác động với gia đình khắc phục toàn bộ thiệt hại cho các bị hại; Ngoài ra theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 307/2022/KLGĐ ngày 14/10/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ thì bị cáo là người bị bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có cha ruột là ông Nguyễn Hoàng M có nhiều thành tích trong công tác và chiến đấu, được tặng nhiều kỷ niệm chương, trong đó có huy chương kháng chiến hạng nhì đây là tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho địa phương và gia đình giám sát giáo dục, cải tạo bị cáo cũng đã đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội, ngoài ra cũng thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội.

Xét thấy bị cáo không có thu nhập không ổn định, hiện đang phải điều trị bệnh nên Hội đồng xét xử thống nhất không khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt.

[4] Xét đề nghị của kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo tham gia phiên tòa là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường xong cho các bị hại. Không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. [6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự trả lại cho ông Nguyễn Hoàng M 01 xe mô tô nhãn hiệu Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát 95H1 – xxxx.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trung H phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm b khoản 1 điều 174, điểm b, s q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường 7, thành phố Vị Thanh, tỉnh G nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Trung H cho Ủy ban nhân dân phường 7, thành phố Vị Thanh, tỉnh G giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo Nguyễn Trung H có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Bị cáo phải thực hiện những nghĩa vụ trong thời gian cải tạo không giam giữ theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Không khấu trừ thu nhập của bị cáo trong thời gian bị cáo chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường xong cho các bị hại. Không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho ông Nguyễn Hoàng M xe mô tô nhãn hiệu Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát 95H1 – xxxx.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2023 giữa cơ quan CSĐT Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Buộc Nguyễn Trung H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (10 -5 -2023).

Riêng bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về