Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 1026/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 1026/2022/HS-PT NGÀY 06/12/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06/12/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 770/2022/TLPT-HS ngày 18 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử phúc thẩm số 772/2022/QĐXXPT-HS ngày 21/11/2022 đối với bị cáo Phạm Đức V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HSST ngày 08/09/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Đức V sinh năm 1981; Đăng ký thường trú: tổ X, phường YH, quận CG, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là Phạm Xuân H sinh năm 1958; Mẹ là Nguyễn Thị H sinh năm 1956; Vợ là Nguyễn Thị O sinh năm 1981; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đầu thú và tạm giữ ngày 06/3/2022. Tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị hại không kháng cáo: anh Nguyễn Văn P; sinh năm 1981; trú tại: Phòng X chung cư Imperia số Y GP, phường PL, quận TX, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim P; sinh năm 1972, trú tại: thôn X, xã VP, huyện TT, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đức V và anh Nguyễn Văn P là bạn học. Cuối tháng 12/2019, V nảy sinh ý định thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER biển số 30A- 933.20 của anh Nguyễn Văn P để đem đi cầm cố lấy tiền trả nợ. Khoảng 13 giờ ngày 29/12/2019, V gọi điện hỏi thuê của anh P chiếc xe ô tô trên trong thời gian 20 ngày và nói dối là thuê xe để cho sếp của V đi lại trong lúc chờ xe ô tô của sếp sửa ở Gara. Tin tưởng V nên anh P đã đồng ý cho V thuê xe và hẹn khoảng 17 giờ cùng ngày đến sảnh Tòa nhà chung cư Imperia số X Giải Phóng để nhận xe. Sau đó, V nhờ anh Nguyễn Văn H là bạn xã hội của V chở đi giải quyết công việc và cầm cố chiếc xe ô tô vì V lái xe chưa thành thạo, anh H đồng ý. V hẹn anh H khoảng 17 giờ đến khu vực sảnh Tòa nhà chung cư Imperia, số X Giải Phóng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, V có mặt tại điểm hẹn, lúc này vợ chồng anh Nguyễn Văn P và chị Vũ Thị D vừa đi ra ngoài về bằng chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER biển số 30A-933.20. Anh P đã bàn giao cho V chiếc xe ô tô trên cùng toàn bộ giấy tờ xe, V viết lại cho vợ chồng anh P, chị D một giấy xác nhận hẹn đến ngày 20/12 âm lịch (Tức ngày 14/01/2020) sẽ trả xe, tiền thuê xe là 15.000.000 đồng và để tạo thêm lòng tin V đã chỉ về phía anh H đang đứng cách đó khoảng 20 mét giới thiệu là lái xe ô tô sếp của V. Sau khi thuê được xe, trên đường đi V nhờ anh H hỏi xem có chỗ nào nhận cầm cố đối với chiếc xe ô tô thì giới thiệu cho V. Anh H đã gọi điện cho bà Nguyễn Thị Kim P (tên thường gọi là bà “Tám”) làm kinh doanh cầm đồ để hỏi về việc cầm cố chiếc xe ô tô trên - thì bà P có yêu cầu mang ô tô và giấy tờ đến để xem trực tiếp. Khoảng 18 giờ cùng ngày, V và anh H có mặt tại nhà bà P ở xã Vạn Phúc. Tại đây, V cho bà P kiểm tra xe ô tô, xem giấy tờ xe và nói với bà P chiếc xe ô tô là của bạn học và là người nhà của V đã đồng ý cho mang cầm. V đang cần số tiền 500.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng trong vòng 30 ngày, bà P tin tưởng và đồng ý. Khi nào lấy xe sẽ tính lãi suất sau. V viết một giấy vay tiền với nội dung vay số tiền 500.000.000 đồng của bà P và để lại chiếc xe ô tô cùng toàn bộ giấy tờ trong thời hạn vay là 30 ngày dưới sự chứng kiến của anh Nguyễn Văn H và ông Nguyễn Văn Q (Bạn của bà P, sinh năm 1960, địa chỉ: thôn X xã VP, huyện TT, Hà Nội). Việc thỏa thuận cầm cố xe do V trực tiếp làm việc với bà P, anh H đứng gần đó nhưng không tham gia, không để ý. Sau khi cầm cố được chiếc xe ô tô, V và anh H ngồi lại ăn tối ở quán nhà bà P đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì ra về. Toàn bộ số tiền có được từ việc cầm cố chiếc xe ô tô, V đã trả nợ và một mình chi tiêu cá nhân hết. Đến hẹn trả xe ngày 14/01/2020, anh P yêu cầu mang xe về trả nên V đã dẫn anh P đến khu vực nhà bà P để xem và nói dối là chiếc xe ô tô sếp của V vẫn đang sử dụng và để tại đây cho anh P tin tưởng. Đồng thời, V viết cho anh P một bản cam kết hẹn đến ngày 03/2/2020 sẽ trả xe cho anh P. Tuy nhiên đến ngày 03/2/2020, V vẫn không trả lại xe. Anh P, chị D liên tục yêu cầu trả xe thì V thừa nhận đã mang chiếc xe ô tô trên đi cầm cố cho bà P và cắt liên lạc, đi khỏi nơi cư trú. Anh P đã làm đơn tố giác V đến cơ quan công an.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Đức V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên phù hợp với các tài liệu thu thập được. V thừa nhận Giấy vay tiền viết cho bà P để cầm cố chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER biển số 30A-933.20 vào ngày 29/12/2019 là do V viết và ký. Đối với số tiền cầm cố chiếc xe ô tô, V khai tiền bà P chỉ đưa 455.000.000 đồng, bà P cắt lại 45.000.000 đồng để tính lãi sau, tuy nhiên V không đưa ra được tài liệu gì chứng minh về việc này và đồng ý sẽ hoàn trả cho bà P đủ số tiền 500.000.000 đồng. Quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị O (là vợ V) đã trả 50.000.000 đồng cho bà P.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Xuân đã thu giữ 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER biển số 30A-933.20 và bản photo các giấy tờ có liên quan đến chiếc xe ô tô gồm: Đăng ký xe, Đăng kiểm xe, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự và Giấy vay tiền V viết lại cho bà P.

Tại bản Kết luận giám định số 4724/C09-P2 ngày 29/7/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER, BKS: 30A-933.20, số khung nguyên thủy: RL4ZR69G5F4025317, số máy nguyên thủy: 2KDU818379.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 152/KLĐG ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong Tố tụng hình sự - UBND quận Thanh Xuân kết luận: Tại thời điểm tháng 12 năm 2019 chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER, BKS 30A-933.20, SK: RL4ZR69G5F4025317, SM: 2KDU818379 đã qua sử dụng có giá là: 485.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi lăm triệu đồng chẵn).

Tại bản Kết luận giám định số 3420/C09-P5 ngày 16/6/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ ký, chữ viết trên các mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ ký, chữ viết của Phạm Đức V trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 do cùng một người ký, viết ra.

Ngày 06/3/2022, Phạm Đức V đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Xuân đầu thú.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HSST ngày 08/09/2022 Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm a, khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Đức V 12 (Mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 06/03/2022.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 21/9/2022, bị cáo Phạm Đức V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng, các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo có đơn kháng cáo là hợp lệ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình thức. Về nội dung: Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Cũng như xem xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận định bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo về nội dung, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Bị cáo công nhận bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng về tội danh, không oan. Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt với các lý do: Bị cáo nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo sẽ tác động gia đình để trả số tiền còn lại cho bà Nguyễn Thị Kim P.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Kim P trình bày: Bị cáo đã trả lại 50 triệu đồng, yêu cầu bị cáo trả lại số tiền còn chiếm đoạt 450 triệu đồng và xử lý nghiêm bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo Phạm Đức V có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.

[2] Về tội danh và hình phạt:

- Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết là đúng tội danh, không oan. Đối chiếu lời khai của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên bị cáo Phạm Đức V đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER, BKS: 30A-933.20 của anh Nguyễn Văn P. Để tạo niềm tin, bị cáo V đã nói dối anh P là thuê xe cho sếp của bị cáo V đi lại trong thời gian xe của sếp V đang sửa chữa. Do tin tưởng bị cáo Phạm Đức V nên ngày 29/12/2019, tại Chung cư Imperia số 360 Giải Phóng, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, anh P đã cho bị cáo V thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA FORTUNER mang biển số 30A- 933.20 trị giá là: 485.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi lăm triệu đồng). Sau khi nhận xe ô tô, bị cáo Phạm Đức V đã mang xe đi cầm cố lấy tiền chi tiêu cá nhân.

Bn án hình sự sơ thẩm căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Phạm Đức V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Về hình phạt và xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; quá trình điều tra, bị hại là anh Nguyễn Văn P có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; bị cáo đã tác động gia đình trả lại 50 triệu đồng cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Kim P; bị cáo có đơn xin đầu thú ngày 06/3/2022. Bản án hình sự sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) năm tù là nghiêm khắc. Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo để giảm một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Phạm Đức V được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HSST ngày 08/09/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội về hình phạt, cụ thể:

Tuyên bố bị cáo Phạm Đức V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Đức V 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/03/2022.

[2] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Đức V không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Về hiệu lực bản án: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 1026/2022/HS-PT

Số hiệu:1026/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về