Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 07/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 14/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 03 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Ngô Hoàng Thúc Ng, sinh năm 1991 tại Bình Phước Nơi thường trú: Tổ 2, ấp 1, xã M, huyện Ch, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Phước H, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kiều Tr, sinh năm 1972; gia đình bị cáo có 3 anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; vợ là Trần Thị Tiểu Nh; bị cáo có 01 người con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Năm 2010 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước xét xử về tội “Cướp giật tài sản” xử phạt 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng 04 ngày tính từ ngày 28 tháng 10 năm 2010. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đóng án phí.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ từ ngày 24/9/2021 đến 02/10/2021, đến ngày 03/10/2021 bị tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Trần Thị N, sinh năm 1983, làm việc tại Văn phòng Luật sư T, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: số 703 quốc lộ 14, khu phố Thanh Bình, phường T, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

- Bị hại:

1. Anh Trương Đình Q, sinh năm 1993, trú tại: Tổ 6, ấp 2, xã M, huyện H, Bình Phước (có mặt)

2. Chị Lê Thị Diễm H, sinh năm 1990, địa chỉ: Khu phố 7, thị trấn Ch, thị xã Ch, tỉnh Bình Phước (có mặt)

3. Chị Phạm Thị Kim D, sinh năm 1982 (có mặt)

4. Anh Nguyễn Quốc T (tên gọi khác: K), sinh năm 1973 (có mặt) Chị D, anh T cùng địa chỉ: Tổ 2, ấp 3, xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước

5. Anh Nguyễn Chí Th, sinh năm 1987, địa chỉ: Khu phố P 1, phường Đ, thị xã B, tỉnh Bình Phước (có mặt)

6. Chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1989, địa chỉ: Tổ 3, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; hộ khầu thường trú: 177 ấp L, xã T, P, Hậu Giang (có mặt)

7. Anh Bùi Thanh Hải (tên gọi khác: T), sinh năm 1982, địa chỉ: Tổ 1, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước (xin vắng)

8. Chị Nguyễn Thị H1 sinh năm 1956, địa chỉ: Khu phố P, phường A, thị xã B, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trương Thị Tiểu Nh, sinh năm 1997, địa chỉ: Tổ 2, ấp 1, xã M, huyện Ch, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

2. Anh Phạm Thanh T1, sinh năm 1997, địa chỉ: Tổ 12, ấp 2, thị trấn Ch, thị xã Ch, tỉnh Bình Phước (xin vắng)

3. Anh Nguyễn Minh Kh, sinh năm 1982, địa chỉ: Tổ 10, ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương (có mặt)

4. Anh Lê Vũ C, sinh năm 1992, địa chỉ: Tổ 1, ấp 1, xã M, huyện Ch, tỉnh Bình Phước (xin vắng)

5. Anh Lê Thái Bình D, sinh năm 1983, địa chỉ: Tổ 5 P, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước (xin vắng)

6. Chị Trần Thị Hồng O, sinh năm 1997, địa chỉ: Ấp 2, thị trấn Ch, thị xã Ch, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

7. Anh Hồ Đức T2, sinh năm 1994, địa chỉ: Tổ 1, khu phố T, phường H, thị xã U, tỉnh Bình Dương (vắng mặt)

8. Chị Nguyễn Thị Thủy T3, sinh năm 1997, địa chỉ: 108/15/1 đường số 1, phường 16, quận G, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2021, muốn có tiều xài, trả nợ và đánh bạc trái phép được thua bằng tiền thông qua hình thức cá cược bóng đá online trên trang web có địa chỉ http://bongda88.com. Ng đã dùng thủ đoạn gian dối là nói dối về việc có người cần thuê xe ô tô giá cao; các thông tin không có thật về việc “có rất nhiều lô xe cũ ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương giá rất rẻ, mua về bán lại có lời”, Ng tự lập danh sách thống kê tên loại xe mô tô cũ cần mua, chiết tính lợi nhuận thu về của từng lô xe; mặc dù không có đất Ng vẫn nói dối “có nhiều lô đất giá rẻ”, đất “ngộp” do dịch bệnh Covid-19 người mua không có khả năng thanh toán, nếu mua rồi bán lại thì sẽ thu lợi nhuận rất nhiều; Ng gửi hình ảnh về một số lô đất trống, hình ảnh Ng đang đi xem đất để các bị hại tin tưởng giao tiền; Ng còn nhiều lần nói dối việc bạn Ng nhờ Ng vay tiền giùm để chiếm đoạt tiền của các bị hại, cụ thể:

1. Chiếm đoạt của anh Trương Đình Q:

Ng và Trương Đình Q, SN: 1993, HKTT: tổ 6, ấp 2 xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước, có mối quan hệ bạn bè thân thiết. Biết Q có xe ô tô hiệu Nissan 7 chỗ, màu trắng, BKS 93A-xxx ít sử dụng nên Ng dùng thủ đoạn gian dối điện thoại cho Q nói xe ít sử dụng thì đưa cho Ng để cho người khác thuê lại hưởng tiền chênh lệch, giá cho thuê từ 1.000.000 đồng/ngày đến 1.600.000 đồng/ngày, mỗi lần cho thuê từ 4-10 ngày thì anh Q đồng ý và giao xe cho Ng. Sau đó Ng sử dụng làm phương tiện đi lại một thời gian rồi mang xe ô tô trên đến cầm cố cho chị Lê Thị Diễm H, SN 1990, HKTT ấp 3A, xã M, huyện Ch (nay là thị xã Ch), tỉnh Bình Phước (chỗ ở hiện nay khu phố 7, thị trấn Ch, thị xã Ch, tỉnh Bình Phước), lấy số tiền 755.000.000 đồng tiêu xài và cá cược bóng đá online.

Sau khi biết sự việc Ng dùng tài sản của mình đem cầm cố cho người khác, anh Q có đơn tố giác hành vi phạm tội của Ng đến Cơ quan CSĐT công an huyện Ch (nay là thị xã Ch), tỉnh Bình Phước (BL296).

Theo kết quả định giá tài sản số 55/KLĐG-HĐĐGTS ngày 06/10/2021, tại thời điểm xảy ra vụ án, xe ô tô hiệu NISSAN, loại 07 chỗ, màu trắng, biển kiểm soát 93A-xxx, có giá 700.000.000 đồng (BL119).

2. Chiếm đoạt của chị Lê Thị Diễm H:

Đầu tháng 3/2021, do cần tiều tiêu xài và cá cược bóng đá online, Ng nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị H bằng việc điện thoại nói dối chị H Ng mới nhận chuyển nhượng thửa đất có giấy CNQSD đất số 60604 đứng tên Thị G, sinh năm 1987 tại ấp 3, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước, nhưng chưa sang tên (thực chất là Ng nhận cầm cố giấy CNQSD đất nêu trên cho Thị G), Ng đang cần tiền đề nghị chị H cho vay số tiền 400.000.000 đồng và Ng sẽ giao cho H giữ giấy chứng nhận QSD đất nói trên để làm tin, sau đó Ng chụp hình giấy CNQSD đất nói trên gửi cho H xem thì được H đồng ý. Ngày 08/3/2021, Ng trực tiếp đến nhà H giao giấy CNQSD đất nêu trên cho H bảo quản, sau đó cả hai cùng nhau đến Văn phòng công chứng Ch lập hợp đồng vay tài sản (BL 71-72), chị H đã giao đủ số tiền 400.000.000 đồng cho Ng.

Từ tháng 3/2021 đến tháng 6/2021, Ng nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của H, bằng việc nói dối H về các lô xe mô tô cũ, ô tô cũ giá rẻ tại B, thành phố Hồ Chí Minh mua về bán sẽ thu lợi nhuận cao, Ng tự lập danh sách và chụp hình bản thống kê tên loại xe cũ cần mua, chiết tính lợi nhuận thu về của từng lô xe để gửi cho H. Do tin tưởng và thấy có lợi nhuận nên H đồng ý 05 lần giao cho Ng tổng số tiền là 1.754.000.000 đồng, cụ thể như sau: lần 1 ngày 18/3/2021 giao 129.000.000 đồng;

lần 2 ngày 06/4/2021 giao 250.000.000 đồng; lần 3 ngày 07/4/2021 giao 170.000.000 đồng; lần 4 ngày 12/5/2021 giao 65.000.000 đồng; lần 5 ngày 12/8/2021 giao 1.140.000.000. Sau khi nhận các khoản tiền trên, để chị H không nghi ngờ, Ng đã giao cho chị H 03 xe mô tô cũ cõ sẵn tại cửa hàng “Xe máy cũ Văn Phát” gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda (không rõ đặc điểm) và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider (không rõ đặc điểm), 01 xe mô tô cũ nhãn hiệu Honda Vario (không rõ đặc điểm) để H tự bán được số tiền 119.000.000 đồng và được trừ vào một phần tiền gốc của H. Ng đã chiếm đoạt 1.635.000.000 đồng của chị H. Ng sử dụng tiền để tiêu xài và cá cược bóng đá online.

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, Ng điện thoại cho H đề nghị hùn tiền cùng với Ng và ông Nguyễn Quốc T (K; sinh năm: 1973, là chồng chị Phạm Thị Kim D) thu mua lô cây cao su thanh lý với giá 750.000.000 đồng, mỗi người hùn 250.000.000 đồng. Để tạo niềm tin, Ng tự tạo tin nhắn giữa Ng với ông T (K) đưa cho chị H đọc, với nội dung là: “Ông K nói trong vòng 25 ngày sẽ bán được lô cây này”. H tin tưởng và giao cho Ng số tiền 250.000.000 đồng. Quá hạn 25 ngày, H điện thoại hỏi Ng nhưng Ng lại tiếp tục tự tạo tin nhắn giữa Ng và ông T (K), rồi chụp màn hình gửi qua cho H, trong tin nhắn thể hiện ông T (K) nói “đã bán cây rồi, nhưng dịch bệnh Công ty chưa chuyển tiền được, tuần sau nhe con, lời chắc rồi đó, nói con H đừng lo lắng”. Đến đầu tháng 9 năm 2021, do nhiều lần hỏi tiền bán cây mà Ng không có tiền, nên H đã điện thoại hỏi ông T (K) thì được biết là không hề có sự việc nêu trên. Ng chiếm đoạt 250.000.000 đồng của chị H để tiêu xài, cá cược bóng đá online.

Như vậy, Ng đã đã đưa ra các thông tin gian dối để chị H tin tưởng 07 lần giao cho Ng tổng số tiền 2.404.000.000 đồng. Ng đã giao lại cho chị H 03 xe mô tô chị H bán được 119.000.000 đồng. Sau khi trừ số tiền 119.000.000 đồng đã trả lại, Ng đã chiếm đoạt tổng số tiền 2.285.000.000 đồng của chị H.

3. Chiếm đoạt tiền của vợ chồng chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (K):

Do quen biết với vợ chồng chị D và anh Nguyễn Quốc T (K; sinh năm:

1973) và biết vợ chồng chị D, anh T (K) có xe ô tô nhãn hiệu KIA CARNIVA, loại 07 chỗ, màu bạc, biển kiểm soát 51G-xxx ít sử dụng. Ng nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ô tô trên để mang đi cầm cố lấy tiền tiêu xài. Ng nói với chị D, anh T (K) “xe cô chú ít sử dụng” cho Ng thuê với giá 500.000 đồng/ngày để Ng cho người khác thuê lại với giá 700.000 đồng/ngày; chị D, anh T (K) hưởng 500.000 đồng/ngày, Ng hưởng 200.000 đồng/ngày. Do tin tương và cũng ít sử dụng xe ô tô trên, chị D, anh T (K) đồng ý và giao xe cho Ng. Sau khi có được xe, Ng mang đến cầm cố cho H lấy số tiền 100.000.000 đồng tiêu xài. Khoảng tháng 5 năm 2021, chị D yêu cầu Ng trả xe ô tô trên để mang xe đi bảo dưỡng và đăng kiểm. Ng chuộc xe ô tô trên từ chị H rồi trả xe cho chị D đồng thời để gia đình chị D tin tưởng, Ng trả 30.000.000 đồng cho chị D và nói tiền thuê xe 02 (hai) tháng. Khoảng 10 ngày sau, Ng tiếp tục nói dối “có người cần thuê xe” để chị D giao xe cho Ng, sau đó Ng mang đến cầm cố cho anh Lê Thái Bình D (sinh năm: 1983; nơi cư trú: tổ 5, khu phố P, phường Đ, thị xã B) lấy số tiền 100.000.000 đồng tiêu xài.

Theo kết quả định giá tài sản số 56/KLĐG-HĐĐGTS ngày 06/10/2021, tại thời điểm xảy ra vụ việc, xe ô tô hiệu KIA CARNIVA, loại 07 chỗ, màu bạc, biển kiểm soát 51G-xxx, có giá 180.000.000 đồng (BL120).

Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2021, để có tiền tiêu xài và cá cược bóng đá online, Ng nói dối chị D về lợi nhuận thu được từ việc mua bán các lô xe mô tô cũ, ô tô cũ giá rẻ tại B, thành phố Hồ Chí Minh, Ng tự lập danh sách và chụp hình bản thống kê tên loại xe cũ cần mua, chiết tính lợi nhuận thu về của từng lô xe để chị D tin tưởng 07 (bảy) lần giao cho Ng tổng số tiền là 1.550.000.000 đồng rồi bị Ngchiếm đoạt, cụ thể: lần 1: ngày 23/3/2021 giao 230.000.000 đồng; lần 2: ngày 01/5/2021 giao 250.000.000 đồng; lần 3: ngày 07/5/2021 giao 70.000.000 đồng; lần 4: ngày 23/6/2021 giao 200.000.000 đồng; lần 5: ngày 17/7/2021 giao 500.000.000 đồng; lần 6: ngày 20/7/2021 giao 150.000.000 đồng; lần 7: ngày 25/7/2021 giao 150.000.000 đồng.

Ngoài ra, ngày 15/7/2021, mặc dù không có đất Ng vẫn nói dối chị D có thửa đất giá rẻ ở huyện P, tỉnh Bình Phước với giá 900.000.000 đồng, nhưng chỉ thanh toán 885.000.000 đồng vì chủ đất hỗ trợ chi phí ra sổ 15.000.000 đồng. Ng đề nghị chị D cùng Ng và chị H mỗi người góp 295.000.000 đồng mua chung, chị D đồng ý nói với chồng là anh T (K) trực tiếp giao 295.000.000 đồng cho Ng và cùng Ngđi đến Văn phòng công chứng Bình Phước trên đường H, thành phố Đ để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại đây chỉ có Ng, anh T (K) mà không có chị H; Ngkhông cho anh T vào cùng mà yêu cầu anh T chờ bên ngoài. Một lát sau Ng quay ra anh T có hỏi về hợp đồng thì được Ng trả lời “đợi ra sổ rồi đưa luôn”. Rồi cả hai cùng nhau ra về. Chiều cùng ngày, Ng tiếp tục nói dối nói với chị D là Ng đang đi xem đất cùng chị H ở xã M, huyện Ch thửa đất đang được rao bán với giá 1.200.000.000 đồng, sau khi thủ tục công chứng xong, Ng sẽ bán lại thửa đất trên với giá 1.600.000.000 đồng, sẽ lời số tiền 400.000.000 đồng. Ng đề nghị D góp tiền cùng Ng và H để mua chung, mỗi người góp 400.000.000 đồng, tiền lời sau khi bán đất sẽ chia cho Ng, chị H và chị D. Do tin tưởng và thấy có lãi nên D đồng ý trực tiếp đưa 400.000.000 đồng cho Ng. Ng đã chiếm đoạt 695.000.000 đồng của chị D để tiêu xài và cá cược bóng đá on line.

Ngày 26/7/2021, Ng điện thoại nói dối với chị D: chị H làm đáo hạn ngân hàng, đang thiếu số tiền 500.000.000 đồng, nhờ Ng hỏi chị D để vay giùm và trả trong ngày. Do chị D có quen biết H và cũng biết H “làm đáo hạn ngân hàng” nên chị D đồng ý. Ng trực tiếp đến nhà D để lấy tiền. Tại nhà chị D, Ng nói dối chị D tiền lời từ việc mua bán xe mô tô cũ của chị D được 40.000.000 đồng nên chỉ cần đưa thêm 460.000.000 đồng là đủ 500.000.000 đồng. D giao số tiền 460.000.000 đồng cho Ng rồi bị chiếm đoạt. Ng sử dụng tiền để tiêu xài và cá cược bóng đá.

Như vậy, Ng đã dùng thủ đoạn gian dối như trên để chị D tin tưởng 11 lần giao cho Ng với tổng số tiền là tiền 2.885.000.000 đồng. Tháng 5/2021 Ng đã trả lại cho chị D 30.000.000 đồng tiền mặt. Sau khi trừ 30.000.000 đồng đã trả lại, Ng đã chiếm đoạt 2.855.000.000 đồng của gia đình chị D.

4. Chiếm đoạt tiền của anh Nguyễn Chí Th Trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021, cần tiêu tiêu xài và cá cược bóng đá online, Ng nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh Th, Ngnói dối anh Th về các khoản lợi nhuận từ mua bán, cầm cố xe mô tô cũ, ô tô cũ, chụp hình các xe mô tô cũ, ô tô cũ tại các cửa hàng mua bán xe cũ trên địa bàn, lập danh sách thống kê tên, loại xe cũ cần mua, giá trị thu về sau khi bán gửi cho Th xem và rủ Th hùn tiền cùng kinh doanh chia lợi nhuận; mặc dù không có đất Ng vẫn chụp hình các thửa đất tại khu dân cư nói dối Th là đang mua đất, rủ Th hùn tiền mua đất bán lại để kiếm lời. Tin tưởng vào những thông tin Ng đưa ra, Th đã thế chấp giấy CNQSD đất của gia đình tại ngân hàng Sacombank, chi nhánh thị xã B và vay tiền của em gái là chị Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm: 1997 giao cho Ng, rồi bị Ng chiếm đoạt. Cụ thể:

Trong năm 2020, Th hai lần giao cho Ng tổng số tiền là 500.000.000 đồng:

lần 1: ngày 17/9/2020 giao 200.000.000 đồng; Lần 2: Tháng 12/2020 giao 300.000.000 đồng. Sau khi nhận số tiền 300.000.000 lần 2 từ Th, Ng trích 30.000.000 đồng ra trả cho Th và nói là tiền lời từ việc mua bán xe mô tô cũ từ khoản tiền 200.00.000 đồng. Ng dùng tiền tiêu xài cá nhân.

Từ tháng 01/2021 đến tháng 7/2021 Ng 07 (bảy) lần chiếm đoạt của Th tổ số tiền 1.046.000.000 đồng, cụ thể: lần 1: ngày 03/01/2021 chiếm đoạt 176.000.000 đồng; lần 2: ngày 08/2/2021, chiếm đoạt 200.000.000 đồng; lần 3: Ngày 02/3/2021 chiếm đoạt 170.000.000 đồng; lần 4: ngày 21/3/2021 chiếm đoạt 100.00.000 đồng; lần 5: ngày 09/4/2021 chiếm đoạt 100.000.000 đồng; lần 6: Ngày 28/6/2021 chiếm đoạt 200.000.000 đồng; lần 7: Ngày 11/7/2021 chiếm đoạt số tiền 100.000.000 đồng. Ng đã dùng toàn bộ số tiền chiếm đoạt để tiêu xài cá nhân và cá cược bóng đá online.

Ngày 23/01/2021, Ng điện thoại cho Th nói dối là Ng đang mua thửa đất ở Becamex Ch, thiếu 300.000.000 đồng và hỏi Th có tiền cho Ng mượn. Ng nói Th yên tâm, đất của bác N đưa qua, trong vòng 30 ngày là bán có lời rồi chia cho Th. Tin tưởng nên Th lại mượn 300.000.000 đồng của chị T3 để đưa cho Ng (trong đó chuyển khoảng cho 200.000.000 đồng và đưa trực tiếp là 100.000.000 đồng tại quán cà phê Góc Phố, thuộc xã M, huyện Ch, tỉnh Bình Phước). Ng sử dụng 300.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

Ngày 05/3/2021, Ng lại điện thoại cho Th nói dối về việc chị H giới thiệu mấy thửa đất giá “thơm lắm”, đang đi xem đất cùng H, Ng chụp hình Ng đứng chung với H gửi cho Th xem. Ng nói mấy thửa đất giá rẻ lắm, “lô này” giá hơn 1.000.000.000 đồng, Th góp thêm 200.000.000 đồng nữa là đủ, 30 ngày sau công chứng sang tên bán lời chia nhau. Do tin tưởng và cũng biết H là người mua bán đất, Th đồng ý và mượn của chị T3 200.000.000 đồng rồi chuyển khoản cho Ng. Ngày 06/3/2021, Ng lại điện thoại cho Th nói hùn số tiền 400.000.000 đồng để mua đất giá rẻ, Th đồng ý và mượn 400.000.000 đồng của T3 rồi chuyển khoản cho Ng.

Ng đã chiếm đoạt 600.000.000 đồng của Th để tiêu xài cá nhân.

Ngày 02/7/2021, Ng chụp hình chung với ông T (K) chuyển cho Th xem, đồng thời nói với Th là đang đi xem đất cùng với chú T (K) để mua. Ng nói có 05 lô đất giá rẻ lắm, chỉ có 1.500.000.000 đồng thôi, Ng góp 400.000.000 đồng nhưng Ng có 100.000.000 đồng nên rủ Th góp thêm 300.000.000 đồng. Tin tưởng Ng nên Th lại mượn của T3 200.000.000 đồng và vay mượn của bạn bè 100.000.000 đồng để đủ 300.000.000 đồng rồi chuyển vào tài khoản cho Ng. Ng sử dụng 300.000.000 đồng để cá cược bóng đó online.

Ngoài ra Ng còn nói dối Th về việc bạn của Ng cần tiền nhờ Ng vay giùm, Ng đồng ý đứng ra bảo lĩnh các khoản vay giùm bạn, Th tin tưởng 05 lần chuyển tiền vào tài khoản của Ng với tổng số tiền 780.000.000 đồng, cụ thể: lần 1: ngày 21/3/2021 chuyển khoản 100.000.000; lần 2: ngày 26/5/2021 chuyển khoản 50.000.000 đồng; lần 3: ngày 04/6/2021 chuyển khoản 230.000.000 đồng; lần 4: ngày 28/8/2021 chuyển khoản 200.000.000 đồng; lần 5: ngày 29/6/2021, chuyển khoản 200.000.000 đồng. Ng sử dụng 780.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân và cá cược bóng đá online.

Như vậy Ng đã dùng thủ đoạn gian dối nêu trên để anh Th tin tưởng 18 lần giao cho Ng tổng số tiền là 3.526.000.000 đồng. Từ tháng 3/2021 đến tháng 7/2021 Ng đã trả lại cho Th tổng cộng 566.000.000 đồng. Sau khi trừ số tiền 566.000.000 đồng đã trả lại, Ng chiếm đoạt 2.960.000.000 đồng của anh Th.

5. Chiếm đoạt tiền của chị Nguyễn Thị Mỹ L Lợi dụng mối quan hệ quen biết thân thiết với gia đình chị Nguyễn Thị Mỹ L, SN: 1989, HKTT: 117, T, T, H, Hậu Giang (Chỗ ở hiện nay: tổ 1, H, T, H, Bình Phước), Ng nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị L để tiêu xài và cá cược bóng đá onloine. Ng nói với chị L là có tiền thì đưa cho Nghi cầm xe, cầm “sổ đỏ” lấy tiền lời nuôi con nhỏ. Do tin tưởng và biết Ng có kinh doanh dịch vụ cầm đồ, chị L đồng ý giao tiền cho Ng, cụ thể như sau:

Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2019: Ng 03 lần chiếm đoạt của chị L số tổng số số tiền 169.000.000 đồng: Lần 1: chiếm đoạt 39.000.000 đồng (trong đó có 23.000.000 đồng Ng bán dùm chiếc xe mô tô cũ hiệu Exciter 135); Lần 2: chiếm đoạt 60.000.000 đồng; Lần 3: chiếm đoạt 70.000.000 đồng. Ng đã sử dụng tiền để tiêu xài cá nhân.

Từ tháng 02/2020 đến tháng 4/2021, Ng nói dối chị L: có người cầm sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), cầm xe mô tô cũ, Ng nói dối là đang kẹt tiền nếu chị L có tiền tìn đưa cho Ng “cầm giúp” (cầm sổ đỏ, cầm xe mô tô cũ) lấy lãi cho chị L. Chị L tin tưởng 05 lần giao tiền cho Ng tổng số tiền 603.000.000 đồng, cụ thể: lần 1: tháng 02/2020 giao 160.000.000 đồng; lần 2: ngày 21/9/2020 giao 40.000.000 đồng; lần 3: ngày 09/12/2020 giao 51.000.000 đồng; lần 4: tháng 10/2020 giao 200.000.000 đồng; lần 5: tháng 4/2021 giao 152.000.000 đồng. Ng dùng 100.000.000 đồng để trả cho chị L và nói dối là tiền lãi từ cầm sổ đỏ, cầm xe mô tô cũ; còn lại 503.000.000 đồng dùng để tiêu xài cá nhân và cá cược bóng đá online.

Đến ngày 09 tháng 6 năm 2021, do thấy Ng mượn tiền ngày càng nhiều mà không trả tiền gốc nên chị L nói khéo Ng là nhờ Ng mua dùm lô xe mô tô cũ nào đó để bán, vì có người cần mua. Lúc này, Ng muốn giữ lòng tin với chị L, Ng đã lấy xe có sãn tại cửa hàng “Văn Phát” bán lại cho chị L 10 chiếc xe mô tô cũ với giá 192.000.000 đồng và được trừ vào một phần tiền gốc, chị L xem xe và đồng ý.

Như vậy, từ tháng 8/2019 đến tháng 4/2021, Ng đã dùng thủ đoạn giao dối như đã nêu trên để chị L tin tưởng 08 lần giao cho Ng tổng số tiền 772.000.000 đồng. Ng đã trả lại chị Lạc 292.000.000 đồng, trong đó có 192.000.000 đồng (được cấn trừ số tiền của 10 xe mô tô cũ Ng bán cho chị L và 100.000.000 đồng Ng nói dối là tiền lãi). Sau khi trừ 292.000.000 đồng đã trả lại, Ng chiếm đoạt 480.000.000 đồng của chị.

6. Chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị H:

Lợi dụng mối quan hệ thân thiết với bà Nguyễn Thị H, SN: 1956, HKTT: khu phố P, phường A, thị xã B, tỉnh Bình Phước (mẹ chồng của chi L), bà H xem Ng như con ruột trong gia đình. Do cần tiền cá cươc bóng đá online, Ng biết rõ việc kinh doanh dịch vụ cầm đồ không thu lợi nhuận nhưng vẫn nói dối về các khoản tiền lời từ việc kinh doanh dịch vụ cầm đồ, Ng nói bà H là có tiền thì đưa cho Ng “làm cầm xe” cho để lấy tiền lời nuôi dưỡng thân già. Bà H biết Ng có kinh doanh dịch vụ cầm đồ nên tin tưởng 02 lần giao cho Ng tổng số tiền 170.000.000 đồng, cụ thể: Lần 1: tháng 6/2021 giao 100.000.000 đồng; Lần 2: Tháng 7/2021 giao 70.000.000 đồng. Ng dùng 4.100.000 đồng trả cho bà H và nói trả tiền lãi từ việc “làm cầm đồ”, còn lại 165.900.000 đồng Ng dùng để cá cược bóng đá online. Sau khi trừ 4.100.000 đồng đã trả lại, Ng chiếm đoạt của bà H tổng số tiền 165.900.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án:

- Ngày 24/9/2021 anh Lê Vũ C tự nguyện giao nộp xe ô tô hiệu NISSAN, loại 07 chỗ, màu trắng, biển kiểm soát 93A-xxx: quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Trương Đình Q. Ngày 21/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên cho anh Trương Đình Q (BL107).

- Ngày 21/9/2022 anh Lê Thái Bình D tự nguyện giao nộp xe ô tô hiệu KIA CARNIVA, loại 07 chỗ, màu bạc, biển kiểm soát 51G-xxx và 01 giấy chứng nhận đăng kiểm ô tô số 6476689: kết quả điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của gia đình chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (K). Ngày 21/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên trả lại cho chị D, anh T (K) (BL 106).

- Đối với 24 (Hai mươi bốn) xe mô tô cũ và 21 (hai mươi mốt) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô bản gốc (có danh sách kèm theo) là tài sản hợp pháp của Ng hiện đang bảo quản tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước - Đối với 04 (Bốn) xe mô tô cũ có số khung, số máy bị mài mòn và tự đục: Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không xác định được chủ sở hữu.

- Đối với điện thoại thoại Iphone 7 plus màu đỏ, số IMEI: 353807081171614, bị bể màn hình hiện đang bảo quản tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước - Đối với 01 (Một) thẻ ngân hàng BIDV số thẻ 97041800689xx tên Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 cuốn tập học sinh nhãn hiệu Vibook air màu cam; 21 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô (bản gốc, có danh sách kèm theo); 04 hợp đồng ủy quyền công chứng xe mô tô; 03 sổ hộ khẩu (phô tô) của Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 mộc tên có dòng chữ “cửa hàng xe máy Văn Phát, số điện thoại 0976107xxx": Là tài liệu lưu kèm theo hồ sơ vụ án Cáo trạng số 45/CT-VKSBP-P1 ngày 27/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 45/CT-VKSBP-P1 ngày 27/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 17 đến 18 năm tù; về vật chứng và các vấn đề khác đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo: thống nhất với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tội danh của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, mức án 17 đến 18 năm tù mà Viện kiểm sát đề nghị là quá cao, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm về chăm sóc mẹ già, con nhỏ và lao động để có tiền trả cho các bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan Điều tra Công an tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người và cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụngcủa cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo là đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ, vật chứng đã thu thập được nên Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Do muốn có tiền tiêu sài và cá cược bóng đá online nên bị cáo đã lợi dụng các mối quan hệ bạn bè quen biết, thân thiết để đưa ra thông tin gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo biết Q có xe ô tô hiệu Nissan 7 chỗ, màu trắng, BKS 93A-16903 ít sử dụng. Do muốn có xe xủa Q để cầm cố cho người khác lấy tiền tiêu sài, bị cáo đã gọi điện thoại cho Quý nói xe ít sử dụng thì đưa cho Nghi để cho người khác thuê lại hưởng tiền chênh lệch, giá cho thuê từ 1.000.000 đồng/ngày đến 1.600.000 đồng/ngày, mỗi lần cho thuê từ 4-10 ngày để Q tin tưởng giao xe cho bị cáo. Khi đã được anh Q giao xe, bị cáo mang đi cầm cố lấy tiền tiêu xài. Bị cáo còn lợi dụng mối quan hệ quen biết với Lê Thị Diễm H, Phạm Thị Kim D, Nguyễn Chí Th, Nguyễn Thị Mỹ L và Nguyễn Thị H do những người này đều biết bị cáo mở cửa hàng “Xe máy cũ Văn Phát” kinh doanh dịch vụ cầm đồ, mua bán trao đổi xe mô tô cũ nên bị cáo đã đưa ra các thông tin sai sự thật về các lô xe mô tô cũ giá rẻ, mua về bán thu lợi nhuận cao, bị cáo tự lập danh sách thống kê tên loại xe mô tô cũ, đưa giá và chiết tính lợi nhuận thu về của từng lô xe, chụp hình các lô xe mô tô cũ dự định mua gửi cho H, D, Th, L và H để chiếm đoạt số tiền của các bị hại. Hơn nữa, mặc dù không có đất nhưng bị cáo vẫn đưa ra các thông tin không có thật về các lô đất giá rẻ, “đất ngộp” để rủ mua chung rồi bán để thu lợi nhuận; bị cáo nói dối nhờ bị hại vay tiền giùm và đứng ra bảo lĩnh tiền vay để chiếm đoạt các khoản tiền bị hại. Cụ thể bị cáo đã 47 lần chiếm đoạt tiền và tài sản của các bị hại với tổng số tiền là: 9.445.900.000 đồng, trong đó của anh Q 700.000.000 đồng; chị H 2.285.000.000 đồng; của chị D 2.855.000.000 đồng; của anh Th số tiền 2.960.000.000 đồng; của chị L 480.000.000 đồng; của bà H 165.900.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt tiền của các bị hại, bị cáo trích từ tiền mà các bị hại đưa để trả lãi và trả một phần tiền gốc cho chị H, chị D, anh Th, chị L và bà H, số tiền còn lại bị cáo dùng để cá cược bóng đá online và tiêu sài cá nhân. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng số 45/CT-VKSBP-P1 ngày 27/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo thực hiện các hành vi phạm tội đều với lỗi cố ý, bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do muốn có tiền tiêu xài một cách bất chính nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[4] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, xem thường pháp luật, do vậy hành vi của bị cáo cần được xét xử bằng một mức án nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, sau khi thực hiện hành vi đã ra đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo nhiều lần (45 lần) thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017

[6] Đối với hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền qua hình thức cá cược bóng đá online trên trang wed “bongda88.Com” của Ngô Hoàng Thúc Ng Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, xác minh làm rõ nhân thân lai lịch của các đối tượng liên quan nhưng chưa có kết quả nên đã tách ra tiếp tục điều tra, xác minh khi có đủ căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

[7] Đối với Phạm Thanh T1, sinh năm 1997, trú tại: Tổ 5, ấp 7, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước cho bị cáo vay số tiền 200.000.000đồng. Tuy nhiên, việc vay tiền giữa các bên là tự nguyện, khi cho vay không lập thành văn bản, không thỏa thuận về lãi suất và thời hạn vay, bị cáo cũng không đưa ra thông tin gian dối để T1 tin tưởng cho vay nên hành vi này chỉ là giao dịch dân sự, do vậy không xem xét xử lý. Anh T1 có quyền khởi kiện bị cáo bằng vụ án dân sự để tranh chấp về số tiền trên.

[8] Đối với anh Hồ Đức T2, trú tại: thôn 2, xã M, huyện T, tỉnh Bình Thuận (tạm trú: tổ 1, khu phố T, phường T, thị xã U, tỉnh Bình Dương) cho bị cáo vay số tiền 476.000.000đồng. Việc vay tiền giữa các bên là tự nguyện, khi cho vay không lập thành văn bản, không thỏa thuận về lãi suất và thời hạn vay, bị cáo cũng không đưa ra thông tin gian dối để anh T2 tin tưởng cho vay nên hành vi này chỉ là giao dịch dân sự, do vậy không xem xét xử lý. Anh T2 có quyền khởi kiện bị cáo bằng vụ án dân sự để tranh chấp về số tiền trên.

[9] Đối với hành vi của Lê Vũ C - Chủ cơ sở Dịch vụ cầm đồ C tại tổ 1, ấp 1, xã M, huyện Ch, tỉnh Bình Phước, nhận cầm cố xe ô tô hiệu NISSAN, loại 7 chỗ, màu trắng, BKS: 93A-xxx cho Ngvay 200.000.000 đồng: khi thế chấp xe giữa C và Ngcó lập giấy biên nhận cầm đồ, lãi suất thoả thuận 0,6%/tháng, thời hạn thế chấp là 30 ngày kể từ ngày 02/9/2021 đến ngày 02/10/2021; giấy tờ kèm theo: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô có đóng dấu của Ngân hàng và giấy kiểm định xe. Việc C nhận cầm cố xe ô trên cho Ng với lãi suất thỏa thuận 0,6%/tháng, nhưng C chưa thu lợi nhuận trong việc này, mức lãi suất thỏa thuận phù hợp mức lãi suất quy định của pháp luật, C chưa có tiền án, tiền sự hơn nữa ngày 24/9/2021, sau khi biết được xe ô tô trên là tang vật trong vụ án, C đã tự nguyên giao nộp xe cho Cơ quan điều tra giải quyết theo quy định pháp luật, không có ý định chiếm đoạt tài sản. Xét thấy không có sự việc phạm tội mà chỉ là giao dịch dân sự, do vậy không đề nghị xử lý.

[10] Đối với hành vi của Lê Thị Diễm H nhận cầm cố xe ô tô hiệu NISSAN, loại 7 chỗ, màu trắng, BKS: 93A-xxx cho Nghi vay số tiền 755.000.000 đồng, thời hạn vay 01 tháng, không thỏa thuận về lãi suất. Đồng thời xuất phát từ mối quan hệ quen biết và tin tưởng nhau, nên H đồng ý cho Ng vay và nhận cầm cố xe ô tô mà không phải do Ng đứng tên chủ sở hữu, nhưng chưa thu lợi từ việc này, H không có tiền án, tiền sự. Xét thấy không có sự việc phạm tội mà chỉ là giao dịch dân sự, do vậy không đề nghị xử lý.

[11] Đối với hành vi của Lê Thái Bình D nhận cầm cố xe ô tô hiệu KIA CARNIVA, loại 7 chỗ, màu bạc, BKS: 51G-xxx cho Ng vay, thỏa thuận lãi suất 1.000đ/1.000.000đ/ngày, không thỏa thuận về thời hạn vay. Việc D cho Ngvay có thỏa thuận về lãi suất nhưng D chưa thu lợi từ việc này, lãi suất thỏa thuận phù hợp mức lãi suất quy định pháp luật. Xuất phát từ mối quan hệ quen biết và tin tưởng nhau, nên D đồng ý cho Ng vay và nhận cầm cố xe ô tô mà không phải do Ng đứng tên chủ sở hữu và sau khi biết được xe tô trên là tang vật trong vụ án D đã tự nguyên giao nộp xe cho Cơ quan điều tra giải quyết theo quy định pháp luật, không có ý định chiếm đoạt. Xét thấy không có sự việc phạm tội mà chỉ là giao dịch dân sự, nên không đề nghị xử lý.

[12] Đối với hành vi Ng nhận cầm cố xe ô tô hiệu VIOS màu trắng, loại 04 chỗ ngồi BKS: 51H-563.01 đứng tên Nguyễn Thành V ( đứng tên giùm Nguyễn Minh Kh, sinh năm 1982, HKTT tổ 10, ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương): Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, thụ thập chứng cứ, nhưng chưa đủ căn cứ xác định hành vi “Lạm dung tín nhiệm chiếm đoat tài sản” của Nghi. Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục xác minh xử lý khi đủ căn cứ.

[13] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị cáo và các bị hại đều xác nhận số tiền mà cáo trạng xác định bị cáo chiếm đoạt của các bị hại là đúng. Bị cáo đồng ý có trách nhiệm bồi thường hoặc trả lại cho các bị hại các khoản tiền mà mình chiếm đoạt. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở buộc bị cáo phải có trách nhiệm:

Trả cho anh Trương Đình Q 210.000.000đồng tiền anh Q phải bỏ ra để chuộc xe về.

Trả cho chị Lê Thị Diễm H 2.285.000.000đồng.

Trả cho vợ chồng chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (tên gọi khác: K) (2.855.000.000đồng – 180.000.000đồng trị giá chiếc xe ô tô KIA CARNIVA loại 7 chỗ bị cáo chiếm đoạt nhưng hiện nay chị D, anh T đã nhận lại xe =) 2.675.000.000đồng.

Trả cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Mỹ L (tên gọi khác: Q) và anh Bùi Thanh H (tên gọi khác: T) 480.000.000đồng.

Trả cho anh Nguyễn Chí Th 2.960.000.000đồng. Trả cho bà Nguyễn Thị H 165.900.000đồng.

[14] Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe ô tô hiệu NISSAN, loại 07 chỗ, màu trắng, biển kiểm soát 93A-xxx, đây là tài sản hợp pháp của anh Trương Đình Quý. Ngày 21/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên cho anh Trương Đình Q (BL107) nên không xem xét xử lý.

- Đối với chiếc xe ô tô hiệu KIA CARNIVA, loại 07 chỗ, màu bạc, biển kiểm soát 51G-xxx và 01 giấy chứng nhận đăng kiểm ô tô số 6476689 là tài sản hợp pháp của gia đình chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (K). Ngày 21/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên trả lại cho chị D, anh T (K) (BL 106) nên không xem xét xử lý.

- Đối với 24 (Hai mươi tám) xe mô tô cũ và 21 (hai mươi mốt) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô bản gốc (có danh sách kèm theo) là tài sản hợp pháp của Nghi tiếp tục quản thủ để đảm bảo thi hành án dân sự. Đối với điện thoại thoại Iphone 7 plus màu đỏ, số IMEI : 353807081171614, bị bể màn hình thuộc sở hữu của bị cáo cần tiếp tục quản thủ để đảm bảo việc thi hành án sau này. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0006 quyển số 0000272 ngày 14/12/2022 giữa Công an tỉnh Bình Phước và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước) - Đối với 04 (bốn) xe mô tô cũ có số khung, số máy bị mài mòn và tự đục: Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không xác định được chủ sở hữu, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) thẻ ngân hàng BIDV số thẻ 97041800689xx tên Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 cuốn tập học sinh nhãn hiệu Vibook air màu cam; 21 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô (bản gốc, có danh sách kèm theo); 04 hợp đồng ủy quyền công chứng xe mô tô; 03 sổ hộ khẩu (phô tô) của Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 mộc tên có dòng chữ “cửa hàng xe máy Văn Phát, số điện thoại 0976107xxx" là những tài liệu liên quan lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

[15] Án phí: Bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 116.775.900 đồng (một trăm mười sáu triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn chín trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[16] Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo được chấp nhận một phần.

[17] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng 17 (mười bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2021.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng có trách nhiệm:

- Trả cho anh Trương Đình Q 210.000.000đồng (hai trăm mười triệu đồng)

- Trả cho chị Lê Thị Diễm H 2.285.000.000đồng (hai tỷ hai trăm tám mươi lăm triệu đồng)

- Trả cho vợ chồng chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (tên gọi khác:

K) 2.675.000.000đồng (hai tỷ sáu trăm bảy mươi lăm triệu đồng)

- Trả cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Mỹ L (tên gọi khác: Q) và anh Bùi Thanh H (tên gọi khác: T) 480.000.000đồng (bốn trăm tám mươi triệu đồng).

- Trả cho anh Nguyễn Chí Th 2.960.000.000đồng (hai tỷ chín trăm sáu mươi triệu đồng).

- Trả cho bà Nguyễn Thị H 165.900.000đồng (một trăm sáu mươi lăm triệu chín trăm nghìn đồng).

4. Về vật chứng:

- Không xem xét xử lý đối với chiếc xe ô tô hiệu NISSAN, loại 07 chỗ, màu trắng, biển kiểm soát 93A-xxx, đây là tài sản hợp pháp của anh Trương Đình Q. Do, ngày 21/9/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên cho anh Trương Đình Q (BL107).

- Không xem xét xử lý đối với chiếc xe ô tô hiệu KIA CARNIVA, loại 07 chỗ, màu bạc, biển kiểm soát 51G-xxx và 01 giấy chứng nhận đăng kiểm ô tô số 6476689 là tài sản hợp pháp của gia đình chị Phạm Thị Kim D, anh Nguyễn Quốc T (K). Do, vào ngày 21/9/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ch đã giao trả xe ô tô trên trả lại cho chị D, anh T (K) (BL 106).

- Tiếp tục quản thủ 24 (Hai mươi tám) xe mô tô cũ và 21 (hai mươi mốt) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô bản gốc (có danh sách kèm theo) là tài sản hợp pháp của Nghi tiếp tục quản thủ để đảm bảo thi hành án dân sự. Tiếp tục quản thủ để đảm bảo thi hành án dân sự đối với 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đỏ, số IMEI : 353807081171614, bị bể màn hình thuộc sở hữu của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án sau này. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0006 quyển số 0000272 ngày 14/12/2022 giữa Công an tỉnh Bình Phước và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước) - Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với 04 (bốn) xe mô tô cũ có số khung, số máy bị mài mòn và tự đục theo Kết luận giám định số 07/2022/GD-KT ngày 14/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không xác định được chủ sở hữu.”.

- Đối với 01 (một) thẻ ngân hàng BIDV số thẻ 97041800689xx tên Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 cuốn tập học sinh nhãn hiệu Vibook air màu cam; 21 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô (bản gốc, có danh sách kèm theo); 04 hợp đồng ủy quyền công chứng xe mô tô; 03 sổ hộ khẩu (phô tô) của Ngô Hoàng Thúc Ng; 01 mộc tên có dòng chữ “cửa hàng xe máy Văn Phát, số điện thoại 0976107xxx" là những tài liệu liên quan lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

5.Về án phí :

Áp dụng Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Ngô Hoàng Thúc Ng phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 116.775.900 đồng (một trăm mười sáu triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn chín trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về